Trong sóng gió, vững niềm tin!

Trong sóng gió, vững niềm tin!

Thứ Hai, 19/02/2024 - 06:00

Tổng cục Thống kê công bố tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2023 ước tính đạt 5,05%. Tỷ lệ này là cao hay thấp? Và liệu đây có phải là kết quả khả quan đối với một nền kinh tế được xem là “một hub (trung tâm) công nghiệp chế biến chế tạo và xuất khẩu ở Đông Nam Á”? Cách thông thường để trả lời những câu hỏi này là đối chiếu, so sánh quốc tế và với chính những mục tiêu mà Việt Nam chúng ta mong muốn.

Trước hết, con số 5,05% cho thấy sự suy giảm đáng kể so với mức tăng trưởng 8,02% vào năm 2022 khi nền kinh tế phục hồi mạnh mẽ, nhất là trong hơn hai quý đầu năm, sau đại dịch Covid-19. Nhớ lại, Việt Nam chỉ tăng trưởng ở mức 2,91% năm 2020 và 2,58% năm 2021.

Việt Nam cũng như rất nhiều nền kinh tế hứng chịu các cơn gió ngược từ bên ngoài. Tăng trưởng kinh tế thế giới thấp, nhu cầu suy giảm, thị trường co hẹp (đặc biệt là ở nhiều đối tác quan trọng của Việt Nam; chỉ riêng Hoa Kỳ và EU chiếm khoảng 42% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam). Các điều kiện tài chính - tiền tệ ngặt nghèo. Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ và ngân hàng trung ương nhiều nước tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát; lãi suất neo ở mức cao.

Theo các chuyên gia và truyền thông quốc tế, kinh tế Việt Nam ít nhiều thể hiện khả năng phục hồi, ổn định và là một trong những nền kinh tế thuộc “nhóm các nền kinh tế tăng trưởng nhanh trong khu vực và trên thế giới”.

Tốc độ tăng trưởng 5,05% năm 2023 của Việt Nam cũng nhỉnh hơn dự báo tăng trưởng 5% của các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương trong Báo cáo cập nhật kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương tháng 10/2023 của Ngân hàng Thế giới.

Tuy nhiên, nhìn lại chính mình, dù có đà đi lên, nhưng sự phục hồi không đủ để giúp nền kinh tế đạt mục tiêu 6,5% cho cả năm 2023 như đã đề ra, và thậm chí thấp hơn mức tăng trưởng trung bình hàng năm 5,87% trong thập niên trước. Đây còn là dấu hiệu cảnh báo sẽ là rất thách thức cho Việt Nam trong việc đạt được mục tiêu có tốc độ tăng trưởng bình quân 6,5% giai đoạn 2021-2025. Theo tính toán, dù GDP năm 2023 tăng 6,0% thì để đạt tới con số đó, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2024-2025 phải là 8,0%/năm.

Trong khi đó, theo Nghị quyết về Phát triển kinh tế - xã hội được thông qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 15, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2024 là 6,0 - 6,5%. Nhiều tổ chức trong nước và quốc tế dự đoán nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng từ 5,6% đến 6,3% (và trên dưới 6,5% năm 2025). Các dự báo đều cho thấy nhiều khả năng kinh tế Việt Nam sẽ có chuyển biến tích cực hơn trong năm 2024, khi áp lực lạm phát, các điều kiện tài chính - tiền tệ trên thế giới giảm. Tuy nhiên trên thế giới, quá trình hồi phục kinh tế vẫn chậm chạp, gập ghềnh;cùng với đó là tính bất định, rủi ro còn cao, và không loại trừ có thể có các cú sốc có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư, thương mại… toàn cầu.

Đề thấy rõ hơn vấn đề tăng trưởng, có thể soi vào các thành tố cung/cầu của nền kinh tế Việt Nam năm 2023. Nhìn tổng thể và khác với đặc tính chung trong suốt thời kỳ dài, xuất khẩu và đằng sau là ngành công nghiệp chế biến chế tạo không còn là động lực chính cho tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giảm 4,4%; riêng xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo giảm 5,2%. Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 3,6%. Lĩnh vực nổi bật, được xem như là một trụ đỡ cho nền kinh tế lại chính là sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản.

Bức tranh đầu tư cũng có cả khía cạnh tích cực và không thuận. Đầu tư tư nhân chững lại, Đầu tư nước ngoài tăng đáng kể, cả đăng ký (cấp mới, điều chỉnh, góp vốn và mua cổ phần; đạt gần 36,6 tỷ USD, tăng 32,1%) và cả thực hiện (đạt gần 23,2 tỷ USD, tăng 3,5%). Ấn tượng hơn cả là đầu tư công; đạt mục tiêu đề ra là giải ngân được 95% của kế hoạch trên 710.000 tỷ VNĐ, cao hơn 146.000 tỷ VNĐ so với năm 2022.

Tiêu dùng tiếp tục là một nhân tố hỗ trợ khá mạnh cho tăng trưởng;ít nhiều phản ánh qua tốc độ tăng trưởng của nhiều ngành dịch vụ như: bán buôn và bán lẻ (tăng 8,82%); vận tải, kho bãi (tăng 9,18%); lưu trú và ăn uống (tăng 12,24%); du lịch (khách quốc tế đạt 12,6 triệu lượt người, gấp 3,4 lần năm 2022). Tuy vậy, vai trò của nhân tố này đang có dấu hiệu giảm. Quý I/2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, loại trừ yếu tố giá, tăng 10,3%. 6 tháng/2023, con số đó còn 8,4%; 9 tháng: 7,3%; và cả năm: 7,1%.

Đảng và Chính phủ đã có nhiều nỗ lực nhằm xử lý các vấn đề kinh tế - xã hội và thúc đẩy phục hồi, tăng trưởng kinh tế. Về cơ bản, những nỗ lực đó nằm trong ba nhóm chính sách, giải pháp có quan hệ tương hỗ với nhau. Một là ổn định kinh tế vĩ mô (từ duy trì lạm phát tương đối thấp cho đến đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng) và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế. Hai là kích cầu (tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu) cùng hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó. Ba là hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật và nâng cao chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh.

Trong sóng gió, vững niềm tin!- Ảnh 1.

Ảnh minh họa (Độc Lập)

Tinh thần là các chính sách, giải pháp này cần được tiếp tục thực hiện trong năm 2024. Những bài học “được” và “chưa được” trong thiết kế và nhất là trong thực thi chính sách chính là một cơ sở quan trọng để chính sách, giải pháp thực sự đi vào cuộc sống, trở nên có hiệu lực, hiệu quả cao. Bên cạnh đó, hàng loạt hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vừa qua cũng được triển khai mạnh mẽ, trong đó có các thỏa thuận cấp cao, ký kết và đàm phán thêm các hiệp định thương mại tự do FTA, và đặc biệt là việc nâng cấp quan hệ song phương với một số nước. Đây là những dấu ấn có ý nghĩa hết sức to lớn trong tạo dựng môi trường thuận lợi thúc đẩy thương mại, đầu tư có chất lượng, phát triển kinh tế đất nước.

Nhìn xa hơn, việc hiện thực hóa mục tiêu và khát vọng phát triển đến năm 2030 trở nên thách thức hơn. Không chỉ cần tăng trưởng cao, mà là cả việc tạo ra những tiền đề thiết yếu cho phát triển nhanh, bền vững. Khó khăn trước mắt ít nhiều đã ảnh hưởng đến sự quyết liệt trong đẩy nhanh cải cách. Chỉ có 10/30 mục tiêu trong Nghị quyết 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 – 2025 có khả năng được thực hiện; 13 mục tiêu, trong đó có mục tiêu tăng năng suất lao động (6,5%/năm), là rất khó hoàn thành.

Gần hai năm qua, thị trường bất động sản rất khó khăn và tiềm ẩn những nguy cơ ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô và sự phát triển lành mạnh của thị trường tài chính. Có 2 vấn đề chính mà chúng ta thấy rõ hiện nay:

- Thứ nhất, quá trình xây dựng chính sách, sự giám sát và hành vi thị trường đang “có vấn đề”.

- Thứ hai, Chính phủ, các bộ, ngành, doanh nghiệp đang nỗ lực khôi phục niềm tin cho thị trường, giúp dòng tiền có thể quay trở lại và một số kênh huy động vốn trở nên “thanh thoát” hơn.

Nhưng câu hỏi đặt ra là, nếu chúng ta cứ mãi chạy theo để xử lý từng tình huống cụ thể như hiện tại thì đến một thời điểm nào đó trong tương lai, những câu chuyện tương tự sẽ lại xuất hiện. Điều đáng tiếc là chưa có những giải pháp căn cơ để phát triển bền vững thị trường bất động sản Việt Nam.

Cụ thể, đối với thị trường trái phiếu, ngay từ năm 2000, chúng ta đã đặt ra vấn đề phát triển bền vững, hiệu quả thị trường này nhưng rồi do vận hành thiếu bài bản, chuyên nghiệp nên đã để lại hệ quả như giai đoạn vừa qua và thậm chí còn kéo dài dai dẳng trong thời gian tới. Như vậy, chúng ta phải thực sự nhìn nhận ra những nền tảng cơ bản của thị trường thì khi đó, mới có thể phát triển lành mạnh được.

Vừa rồi, trước những khó khăn mà thị trường đang gặp phải, Quốc hội, Chính phủ đã đưa ra những giải pháp giải quyết tiến bộ, hợp lý.

- Thứ nhất, đưa ra một luật sửa nhiều luật và những cơ chế đặc thù.

- Thứ hai, trao quyền mạnh mẽ hơn cho các cấp chính quyền. Cùng với đó là xử lý nợ xấu, ban hành các nghị quyết và coi nghị quyết trong một chừng mực, vừa là thí điểm và vừa có hiệu lực như luật. Đây cũng có thể coi là giải pháp căn cơ, theo nghĩa: Thế giới hiện nay rất bất định, các cú sốc đến bất ngờ và chúng ta không thể dự báo trước được. Những điều chúng ta coi là bất thường cũng sẽ trở nên bình thường vì trong quá trình làm, vẫn phải sử dụng những giải pháp như vậy.

Tuy nhiên, như thế có vẻ vẫn “chưa đủ”. Tôi đồng ý với quan điểm và kết quả khảo sát của nhiều tổ chức nghiên cứu đã chỉ ra rằng, 70% khó khăn của thị trường bất động sản đến từ những vấn đề pháp lý. Bản chất nằm ở 2 phương diện:

- Thứ nhất, thị trường thiếu minh bạch, quyền sở hữu không rõ ràng thì không thể có giao dịch. Nghĩa là khi không xử lý được vấn đề pháp lý thì không có dòng tiền, dù có ban hành nhiều chính sách cùng các gói hỗ trợ tốt và doanh nghiệp có những giải pháp tái cấu trúc, nỗ lực thế nào đi chăng nữa.

- Thứ hai, trong bối cảnh hiện nay, không ít cán bộ các cấp chính quyền đang “sợ” và “né” trách nhiệm. Nếu pháp lý không rõ ràng thì không một ai dám thực hiện.

Phải luôn luôn nhìn bất động sản gắn với ổn định vĩ mô và sự phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính.
Trong sóng gió, vững niềm tin!- Ảnh 2.TS. Võ Trí Thành

- Thứ nhất, bất động sản là một lĩnh vực quan trọng trong phát triển nền kinh tế. Bản thân thị trường này có độ lan tỏa lớn và cần nhìn nhận bất động sản cả theo nghĩa bất động sản dịch vụ, đa công năng, khai thác công trình và xây dựng.

Và đã là thị trường thì điều đặc biệt quan trọng là vấn đề sở hữu và quyền tài sản. Chính sách cần sự tường minh, rõ ràng đối với sở hữu tài sản và quyền tài sản đối với các giao dịch.

- Thứ hai, phải luôn luôn nhìn bất động sản gắn với ổn định vĩ mô và sự phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính. Bất động sản luôn cần nguồn vốn lớn nên có sự liên quan chặt chẽ tới hệ thống tài chính và ổn định kinh tế vĩ mô. Điểm tích cực của thị trường bất động sản đối với thị trường tài chính là thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển, mặc dù cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro và không dễ dàng trong quá trình thực hiện.

Và cả hai thị trường này đều có thể gặp rủi ro. Bởi bất động sản liên quan đến tài sản lớn, nên rất dễ có những vấn đề về sau, như sự công bằng, bong bóng, đóng băng…

Đã có rất nhiều những cuộc khủng hoảng về kinh tế bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hai thị trường: Tài chính và bất động sản. Cái khó là thị trường bất động sản hiện đang chịu rất nhiều áp lực vĩ mô.

Vì vậy, điều quan trọng là phải có những giải pháp từ khuôn khổ pháp lý, giám sát, kênh dẫn vốn hay vấn đề xử lý tranh chấp… để đảm bảo quyền sở hữu về tài sản. Và để có thể xây dựng và thực hiện được chính sách là cả quá trình bền bỉ và dài hạn.

Trong năm 2024, cần quan tâm đến các động lực tăng trưởng từ phía tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam (tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu công và xuất khẩu). Xuất khẩu giảm, tiêu dùng vẫn ở mức tăng và vừa qua, nền kinh tế vẫn có sự tăng trưởng một phần quan trọng là nhờ tiêu dùng. Tuy nhiên hiện nay, tốc độ tăng trưởng này cũng đang có dấu hiệu giảm dần. Và lĩnh vực quan trọng tiếp theo là đầu tư, đặc biệt là đầu tư công.

Có thể thấy, đằng sau đầu tư công là các công trình xây dựng, bất động sản hạ tầng, khu công nghiệp, logistics… góp phần làm hạn chế sự suy giảm tăng trưởng, bù đắp cho những phần bị giảm sút. Đầu tư công rất quan trọng, chủ đạo là xây dựng hạ tầng. Hiện nay, do vấn đề về pháp lý cũng như nguồn vốn nên rất nhiều dự án trên cả nước đang phải tạm dừng triển khai. Nếu tháo gỡ được những khó khăn để tiếp tục triển khai các dự án này thì dòng tiền sẽ quay trở lại. Đây cũng là điều quan trọng với tăng trưởng. Do đó, cần phải đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công. Qua đó, tháo gỡ những vướng mắc về đầu tư cơ sở hạ tầng, cũng như những tồn đọng về vốn giữa các doanh nghiệp.

Nếu nói về dài hạn thì cần bàn đến chất lượng hạ tầng như thế nào, công trình có phù hợp không? Và ẩn chứa đằng sau chính là những ưu tiên.

Trong sóng gió, vững niềm tin!- Ảnh 3.

Ảnh minh họa (Hoàng Huy)

Cùng với đó, bất động sản có sự liên quan chặt chẽ đến sự ổn định thị trường tài chính. Và nguyên nhân dẫn đến có những bất ổn trên thị trường tài chính vừa qua là do sự ngưng trệ của thị trường trái phiếu như hiện tượng không thể huy động vốn, khan dòng tiền, thị trường không có thanh khoản…

Từ đó, đã làm mất đi lòng tin, không chỉ của các bên tham gia trực tiếp vào thị trường bất động sản, trái phiếu mà cả các bên liên quan. Nếu không giải quyết được những vấn đề khó khăn trước mắt thì đầu tư nói chung không thể tăng trưởng được.

Trước tiên, phải xử lý triệt để vấn đề của nhà đầu tư trái phiếu và các nhà đầu tư mua sản phẩm bất động sản nhưng chưa được tháo gỡ về pháp lý quyền sở hữu, nếu không sẽ không kích thích được đầu tư tư nhân. Tất nhiên, còn rất nhiều yếu tố khác của thị trường như đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay, không có quá nhiều thương vụ thành công với nhà đầu tư nước ngoài.

Có 2 lý do cơ bản ảnh hưởng đến thị trường bất động sản mà chúng ta đang nhìn nhận, đánh giá. Thứ nhất, nhóm biến số từ thế giới bên ngoài. Áp lực do các điều kiện tài chính tiền tệ có thể “đỡ đi” do mức tăng lãi suất ít hơn, lạm phát đã qua đỉnh. Mặc dù tăng trưởng kém hơn cùng kỳ nhưng có thể sự suy thoái không quá nặng nề và nếu có thì cũng ở mức độ nhẹ.

Thứ hai, nhóm biến số trong nước. Bên cạnh những chính sách đã được ban hành thì chúng ta đang rất kỳ vọng vào việc giải quyết vấn đề liên quan đến tài chính tiền tệ, thanh khoản, tỷ giá lãi suất, thị trường trái phiếu và bất động sản.

Hiện nay, thanh khoản hệ thống ngân hàng khá dồi dào, cộng với áp lực lạm phát không quá lớn, lãi suất điều hành của NHNN, lãi suất ngân hàng thương mại giảm.

Nếu những điều kiện từ bên ngoài diễn ra thuận lợi thì lãi suất được kỳ vọng sẽ có thể giữ ổn định hoặc ít nhiều giảm tiếp trong thời gian tới.

Như vậy, các giải pháp từ pháp lý đến hỗ trợ tài chính chung hay từng gói hỗ trợ riêng lẻ cũng như quyết tâm tái cấu trúc thị trường bất động sản được kỳ vọng sẽ dần dần được hiện thực hóa và đi vào cuộc sống. Cùng với đó, nếu đầu tư công, cơ chế đặc thù cho một số địa phương phát huy tốt thì thời gian tới, thị trường bất động sản sẽ “bớt khó” hơn.

Dù cơ chế đặc thù chưa hoàn hảo, vì nhiều người mong muốn phải mang tính đột phá hơn nữa nhưng cơ chế lại có 2 khía cạnh: Một là, để xử lý, vượt qua những khó khăn tồn đọng ở hiện tại (như vướng mắc của hàng trăm dự án bất động sản). Hai là, những điểm đột phá mới để thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng.

Một điểm mới tích cực của thị trường bất động sản năm 2024 là tất cả quy hoạch quốc gia, vùng và quy hoạch của 63 tỉnh thành sẽ được phê duyệt. Cho đến nay, Thủ tướng đã phê duyệt trên 40 quy hoạch tỉnh và gần như phần còn lại đã hoàn thành dự thảo. Hà Nội, TP.HCM đang làm quy hoạch và trong năm nay sẽ xong. Và trong tất cả các bản quy hoạch ấy, rất nhiều quy hoạch liên quan đến xây dựng, bất động sản.

Hiện nay đang có 2 quan điểm dự báo về thời điểm phục hồi của thị trường bất động sản. Một quan điểm lạc quan là bất động sản sẽ phục hồi rõ nét vào cuối năm nay. Một quan điểm ít tích cực hơn cho rằng, bất động sản có thể phục hồi bắt đầu từ 2025. Tuy nhiên, quan trọng hơn, mọi người hãy nhìn lý giải của họ vì sao như vậy và hãy quan sát trên thực tế, xem chuyển động như thế nào?

Chúng ta đã có Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản sửa đổi. Hạ tầng của chúng ta tốt và sẽ đẩy mạnh, làm quyết liệt trong năm 2024. Trong năm 2023, Thủ tướng đã lập 5 tổ công tác chỉ đạo giải ngân đầu tư công và đầu tư công trong năm đã đạt được những kết quả tốt.

Ngoài ra, đầu tư FDI cũng rất quan tâm đến bất động sản thông qua mua lại sáp nhập rất nhiều, trong FDI vào Việt Nam năm 2023, 25-30% là bất động sản. Các nhà đầu tư của Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc… đều quan tâm đến bất động sản Việt Nam.

Tôi cho rằng, đây chưa phải là tất cả, nhưng “ánh sáng” sẽ xuất hiện. Bên cạnh đó, còn một vấn đề chúng ta cũng phải quan tâm, đó là việc thanh tra, kiểm tra các dự án. Nếu kết thúc sớm được quá trình này thì sẽ giải tỏa được rất lớn tâm lý cho thị trường. Thế giới rất bất định và nếu không xấu đi, áp lực giảm dần thì ngay từ đầu năm sẽ có những tín hiệu tích cực ở một số lĩnh vực của nền kinh tế. Tuy nhiên, do khó khăn nhiều chiều và độ trễ hiệu lực chính sách, thị trường bất động sản có thể phục hồi chậm hơn, như những cách nhìn nhận về thời điểm phục hồi rõ nét ở trên.

Để giải quyết bài toán nâng cao hiệu quả tiếp cận tín dụng của người dân, doanh nghiệp, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế cần phải có cách nhìn và giải pháp tổng thể cả trong hệ thống kinh tế cũng như trong hệ thống ngân hàng.

Để có lời giải cho bài toán này, chỉ riêng hệ thống ngân hàng cũng khó giải quyết được vấn đề. Trước tiên, về tư duy cần phải tách bạch, "không được đánh đồng" giữa vai trò của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại.

Từ tổng thể chung của nền kinh tế,cần có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa các chính sách tài chính với chính sách tiền tệ, nhất là trong bối cảnh hiện nay, dư địa để giảm lãi suất không còn nhiều. Cần nghiên cứu có giải pháp phù hợp, hiệu quả đẩy mạnh chính sách tài khóa.

Đối với tín dụng, cần phải phân biệt rành mạch khả năng về chính sách của Ngân hàng Nhà nước và hoạt động của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ khôn khéo, gắn với bảo đảm an toàn hệ thống tín dụng và có những cách hỗ trợ qua các công cụ tiền tệ. Các ngân hàng thương mại cần hoạt động theo pháp luật, quy luật của thị trường và cả “khẩu vị” của mình.

Bên cạnh đó, cần đánh giá, tính toán kỹ lưỡng để chính sách có thể hướng dòng vốn vào những khu vực có khả năng phục hồi và phát triển, dẫn dắt nền kinh tế, đi đôi với các giải pháp kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy xuất khẩu, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; hỗ trợ khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh,…

Bên cạnh vượt khó, cần bắt nhịp với yêu cầu mới.

Thế giới đang thay đổi, xu hướng lớn đan xen, vừa gắn với đòi hỏi phát triển, không chỉ thịnh vượng, tăng trưởng, mà còn xanh, hài hòa hóa xã hội - con người - thiên nhiên... Cùng với đó là những dịch chuyển về tiêu dùng, đầu tư, công nghệ, kỷ nguyên số… Có nhiều điều trong xu hướng chúng ta bước đầu nắm được, nhưng còn nhiều điều phải nghiên cứu, trải nghiệm qua thực tiễn.

Bối cảnh hiện tại đòi hỏi những thay đổi căn bản về quản trị, từ quản trị quốc gia đến quản trị tổ chức. Tất nhiên, cách quản trị truyền thống vẫn quan trọng, nhưng đòi hỏi thêm các yếu tố để đáp ứng yêu cầu mới.

CEO Nokia Stephen Elop đã từng có câu nói nổi tiếng sau khi Nokia buộc phải bán mảng kinh doanh máy tính bảng và điện thoại cho Microsoft vào năm 2014, khai tử thương hiệu Nokia lừng lẫy một thời, đó là “mặc dù chúng tôi đã không làm điều gì sai, nhưng theo cách nào đó, chúng tôi đã hoàn toàn thua cuộc”.

Có thể không sai quy trình, thủ tục, nhưng thất bại của Nokia đến từ không đủ bản lĩnh, không đủ sáng tạo, không đủ đổi mới, không đủ linh hoạt để bắt kịp xu hướng phát triển.

Có thể chính các quy định bảo đảm không sai quy trình như đã đề cập ở trên đang trói buộc, thậm chí triệt tiêu tinh thần phục vụ, động lực sáng tạo của cả đối tượng thực thi cũng như đội ngũ công chức.

Quan điểm của tôi là, niềm tin bắt đầu từ các nỗ lực cải cách, phục hồi kinh tế thông qua những chính sách phù hợp với cuộc sống, song hành với sự chuyển động theo hướng tích cực của bộ máy công vụ.

Khi các chuyển động có kết quả cụ thể, kích hoạt chuyển động của thị trường dù trong bối cảnh vô cùng khó khăn, niềm tin sẽ được nuôi dưỡng.

Thời gian là nguồn lực, là chi phí cơ hội. Do đó, việc ra quyết định cần đúng thời điểm; cũng nên hết sức quan tâm quá trình ra quyết định chính sách, trong đó sự phối hợp giữa Quốc hội, Chính phủ giữ vai trò rất quan trọng. Thời gian qua, Quốc hội đã có nhiều cách làm sáng tạo như đã nêu ở trên, vì vậy cần tổng kết. Tận dụng thời gian, ra quyết định chính sách đúng thời điểm và triển khai kịp thời cũng là nguồn lực lớn giúp tạo dựng niềm tin, vượt qua khó khăn, bắt nhịp xu thế phát triển bền vững./.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top