
TS. Võ Trí Thành: Vững niềm tin, sục sôi khát vọng, doanh nghiệp tư nhân sẽ “làm nên chuyện”
Trong cuộc trò chuyện với Reatimes, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh nhìn nhận, khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp, đang được khoác lên mình sứ mệnh lịch sử đối với tương lai thịnh vượng của quốc gia, dân tộc. Đây là cơ hội chưa từng có để lực lượng này tạo nên bước nhảy vọt và thực sự "lớn mạnh".
"Lớn mạnh" trong hình dung của TS. Võ Trí Thành, không chỉ nói đến những doanh nghiệp quy mô lớn, có vai trò dẫn dắt mà còn cả những doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) ở khía cạnh "nhỏ nhưng không yếu". Khi được mở bung không gian phát triển, được nâng cao năng lực cạnh tranh một cách bền vững, tất thảy sẽ tạo ra sức mạnh nội sinh cho nền kinh tế.
Đất nước hội nhập sâu rộng, sân chơi lớn, doanh nghiệp phải mạnh mới đủ sức nâng mình lên và vươn ra toàn cầu. Để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ tụt hậu, công cuộc đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế - với giá trị gia tăng tạo ra dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đang được thúc đẩy mạnh mẽ hơn, và bước ngoặt này không thể thiếu vai trò tiên phong của các doanh nghiệp tư nhân.
"Nâng doanh nghiệp lên là nâng đất nước lên. Chính sách đang có những thay đổi đột phá, thời khắc vươn mình đã đến. Thắng thua, thành bại phụ thuộc vào sự nhạy bén, năng lực và nỗ lực tự thân của doanh nghiệp trong việc nắm bắt các cơ hội và thực hiện sứ mệnh thời đại", TS. Võ Trí Thành nói.
PV: Vì sao thời điểm này, kinh tế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân lại được nhắc đến nhiều như vậy, thưa ông?
TS. Võ Trí Thành: Năm 2024, mức tăng trưởng kinh tế 7,09% phụ thuộc nhiều vào yếu tố "ngoại"; một ví dụ điển hình là khối FDI gắn với tăng trưởng xuất khẩu cao. Tuy nhiên, năm 2025, yếu tố "ngoại" sẽ có thể không có nhiều thuận lợi, nên tăng trưởng được kỳ vọng lớn hơn vào khu vực nội, doanh nghiệp nội.
Mặt khác, năm 2025 là dấu mốc rất quan trọng. Đất nước đang đứng trước thời khắc lịch sử của một kỷ nguyên phát triển mới hướng tới khát vọng hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập, trở thành một quốc gia phát triển, thu nhập cao. Để đạt được mục tiêu, nền kinh tế cần tăng trưởng cao, bền vững trong 20 năm tới và để tạo đà, chúng ta đặt mục tiêu tăng trưởng ít nhất 8% năm 2025. Đây là mục tiêu thách thức trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động khó lường, nhưng không phải không có dư địa để đạt được.
Trong nền kinh tế hội nhập, khu vực đầu tư nước ngoài, nhất là FDI, có thể đóng vai trò quan trọng, song nhìn về dài hạn, sự phát triển không thể bền vững, đất nước không thể hùng cường nếu thiếu vắng lực lượng kinh tế tư nhân hùng mạnh cùng sự trưởng thành của các doanh nghiệp và doanh nhân dân tộc. Thành hay bại, hiện thực hóa được khát vọng phát triển hay không, tùy thuộc có tính quyết định vào sự vận động của khu vực kinh tế tư nhân.
Những thành tựu đáng tự hào của đất nước sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, cải cách đã có sự đóng góp rất lớn của kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực này trong suốt những năm qua chưa tương xứng với tiềm năng bởi còn nhiều điểm nghẽn, rào cản. Nếu không kịp thời tháo gỡ, sẽ là trở lực rất lớn cho mục tiêu phát triển của đất nước trong giai đoạn tiếp theo. Một khu vực tư nhân năng động và có năng lực cạnh tranh cao là bảo đảm vững chắc cho sự thịnh vượng của Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới và bối cảnh thế giới mới.
Việc tạo dựng, duy trì, giữ vững niềm tin đối với sự phát triển của đất nước là thách thức không nhỏ. Nếu bàng quan, chỉ nhìn ngắn hạn thì chắc chắn, công cuộc cải cách nền kinh tế sẽ không có được thành quả mong muốn. Với khát vọng cháy bỏng, với những mục tiêu đầy thách thức trước mắt, hiện tại là thời điểm không thể chậm trễ hơn trong việc xóa bỏ các rào cản, khơi dậy sức mạnh để kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng.
Cuộc cải cách này xuất phát từ sự nhìn nhận, đánh giá đúng về tầm vóc, vai trò động lực của khu vực kinh tế tư nhân để tạo ra những chuyển biến thật sự có ý nghĩa, mang tính đột phá hơn, đáp ứng những mong mỏi trên thực tế và thôi thúc kinh tế tư nhân nhanh chóng lớn mạnh vì sự phồn vinh của đất nước.
Lịch sử đã cho thấy, mỗi khi thể chế có những đột phá, chuyển biến thực chất, quan trọng thì kinh tế tư nhân đều có sự bật lên với sức sống mãnh liệt.
PV: Kinh tế tư nhân đã nhiều lần được khẳng định vai trò trong hành trình phát triển của đất nước với nhiều cơ chế, chính sách được thúc đẩy. Nhưng có lẽ chưa bao giờ được nhìn thẳng, đào sâu và tạo được sự quan tâm mạnh mẽ như hiện nay, dường như không gian phát triển sẽ được mở bung hết sức đối với khu vực kinh tế này?
TS. Võ Trí Thành: Đúng vậy. Đã có những chuyển biến về nhận thức đối với kinh tế tư nhân ngay từ khi Việt Nam chính thức chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường; khi đó chúng ta nói là kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Trong gần 40 năm Đổi mới, nhiều chính sách, khung khổ pháp lý được xây dựng để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân gắn với quyền sở hữu, quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm; gắn với nỗ lực tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh, an toàn. Tại Nghị quyết 10 NQ-TW năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, kinh tế tư nhân đã được khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự chuyển biến về nhận thức liên quan đến vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đã tạo nền tảng cho khu vực kinh tế này lớn lên, phát triển mạnh mẽ hơn, ghi dấu ấn trong quá trình đổi mới nền kinh tế và hội nhập.
Điều này đã được nhắc đến nhiều. Trong bài viết "Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định những đóng góp thực chất của kinh tế tư nhân đối với những thành quả đáng tự hào của nền kinh tế đất nước sau 40 năm Đổi mới. Nhưng tổng kết lại, như đã nói, vẫn còn nhiều điểm hạn chế, khiến lực lượng kinh tế tư nhân chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và đòi hỏi của khát vọng phát triển ở giai đoạn mới. Làm sao để hiện thực hóa được những tiềm năng của kinh tế tư nhân đã phần nào được thể hiện trong 40 năm đổi mới mà hiện nay đang vướng? Rõ ràng, cần nhìn lại một cách thực tâm, thực chất, tổng thể, lớp lang, toàn diện về khu vực kinh tế này để có những giải pháp thúc đẩy phù hợp.
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, phải thay đổi được trong tư duy, nhận thức thì mới thay đổi được trong cách "ứng xử" và hành động, chính sách cụ thể đối với khu vực kinh tế tư nhân. Và phải có chiến lược rõ ràng cho phát triển của khu vực kinh tế tư nhân phù hợp với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế, với không gian địa kinh tế, địa chính trị của đất nước và biến đổi của thế giới nhằm bảo đảm cho kinh tế tư nhân có đủ sức phát triển với khả năng thích ứng, khả năng chống chọi và khả năng cạnh tranh cao.
Điểm nhấn trong các giải pháp cần cụ thể hóa là xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời nâng đỡ kinh tế hợp tác, kinh tế hộ và startups; khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các lĩnh vực chiến lược của đất nước. Điều này cho thấy, phải gắn kết các lực lượng để kinh tế tư nhân lớn mạnh hơn, cạnh tranh hơn, trong đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa là lực lượng có tính nền tảng cho sự phát triển trong mối quan hệ với thể chế cải cách, môi trường kinh doanh tốt nhất có thể.
Những chỉ đạo liên tiếp của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm trong thời gian gần đây và đặc biệt sắp tới Bộ Chính trị ban hành nghị quyết mới về khu vực kinh tế tư nhân, với những cải cách đột phá, đang và sẽ tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, quyết liệt hơn trong nhận thức và hành động, tạo ra nền tảng phát triển mới cho khu vực kinh tế này.
Lực lượng kinh tế tư nhân đang đón nhận lời hiệu triệu để hướng tới trở thành lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên mới; lực lượng chủ lực, đi đầu trong ứng dụng công nghệ và đổi mới, sáng tạo; có năng lực cạnh tranh toàn cầu, hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng quốc tế…. Tinh thần cải cách thể chế khi được chuyển hóa thành hành động cụ thể, kinh tế tư nhân, trọng tâm là lực lượng doanh nghiệp sẽ thực sự có thể "làm nên chuyện", phát huy tối đa tiềm năng và sức bật. Mục tiêu khỏa lấp 70% GDP đối với khu vực kinh tế tư nhân là hoàn toàn khả thi một khi được vùng vẫy trong không gian phát triển mới và được thống kê đúng, đủ những đóng góp cụ thể.
Có một điều tôi muốn nhấn mạnh là, trong lịch sử Đổi mới, cải cách của Việt Nam, cứ mỗi khi gặp khó thì lại có những bước chuyển mình, đột phá mới. Đơn cử như khi đàm phán tham gia TPP hay CPTPP, Việt Nam là nước có thu nhập bình quân thấp nhất, thể chế kinh tế chưa hoàn thiện. Nhưng chúng ta vẫn quyết làm bằng được, vượt qua tất cả và hội nhập ngày càng sâu, rộng với khu vực và thế giới, trong đó có cả các nước lớn.
Mục tiêu đã được xác định, khát vọng đã được hun đúc, thế và lực hiện nay cũng đã khác so với giai đoạn đầu Đổi mới. Không có gì là không thể khi cơ hội nhảy vọt của Việt Nam chưa bao giờ rõ ràng như lúc này.
PV: Ông có thể nói rõ hơn về những cơ hội?
TS. Võ Trí Thành: Sống và làm việc từ những năm tháng khó khăn nhất của đất nước, từ giai đoạn đầu Đổi mới đến những năm phát triển tăng tốc và hội nhập sâu rộng, tôi thấy rằng, mỗi thời kỳ đều có những vất vả, thách thức và cơ hội khác nhau nhưng hiện tại có thể nói là kỷ nguyên đáng sống nhất. Dù đối mặt với tình hình thế giới còn nhiều biến động, chuỗi cung ứng đứt gãy, kinh tế toàn cầu phân mảnh, biến đổi khí hậu gia tăng và muôn vàn thách thức thời cuộc khác nhưng kể cả trong khó khăn, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy cơ hội, đặc biệt là cơ hội bứt phá của các doanh nghiệp.
Cơ hội chưa từng có thứ nhất, đó là chuyển đổi kép, "số" gắn với "xanh". Tư duy phát triển đang dịch chuyển rõ nét từ nâu sang xanh, từ kinh tế "tuyến tính" sang kinh tế "tuần hoàn", từ "thực" sang "số" và "số" phải gắn với "thực", thị trường và hội nhập gắn với sự sáng tạo. Công nghệ, thời đại của AI đã mở ra cuộc cách mạng về lối sống và phương thức sản xuất kinh doanh mới. Khung khổ pháp lý cho kinh tế số và xanh cũng đang được rốt ráo hình thành, hoàn thiện.
Cơ hội thứ hai là sự dịch chuyển mạnh mẽ của các chuỗi cung ứng toàn cầu gắn với các nhà đầu tư, các tập đoàn lớn trên thế giới. Việt Nam là một trong các điểm đến được hết sức quan tâm. Cơ hội bắt tay với các "đại bàng" lớn trên thế giới là chưa từng có.
Cơ hội thứ ba là tiến trình đô thị hóa cùng sự dịch chuyển dân cư và cấu trúc dân số. Sự lên ngôi của thế hệ gen Z và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu tại các đô thị lớn như TP.HCM, Hà Nội sẽ quyết định lối sống, tiêu dùng và dự báo tầng lớp này sẽ tiếp tục gia tăng mạnh mẽ trong giai đoạn tới.
Đến thời điểm này, kinh tế Việt Nam được đánh giá đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất sau tác động của đại dịch Covid-19 và những biến động vĩ mô trên thế giới, các hoạt động đầu tư kinh doanh, xuất khẩu và tiêu dùng nội địa đã từng bước phục hồi. Cùng với không gian cải cách thể chế rộng mở, giới kinh doanh đang ở tâm thế nhiều hy vọng trong việc tìm cách tận dụng các cơ hội chưa từng có thay vì chỉ tập trung dồn sức vượt qua khó khăn như giai đoạn trước.
PV: Có thể thấy, doanh nghiệp tiếp tục được kỳ vọng sẽ là lực lượng nòng cốt trong việc tận dụng các cơ hội và hiện thực hóa các sứ mệnh của kinh tế tư nhân và đóng góp vai trò quan trọng hơn nữa đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nhìn sâu vào nội lực của các doanh nghiệp tư nhân hiện nay, ông có bình luận gì?
TS. Võ Trí Thành: Nói một cách khái quát nhất là đã có lớn nhưng chưa thực sự "lớn mạnh".
Cùng với quá trình Đổi mới, và nhất là từ khi có Luật Doanh nghiệp năm 1999, lực lượng doanh nghiệp tư nhân đã có sự phát triển mạnh mẽ và có thể nhìn thấy rõ. Trong gần 20 năm lại đây, trung bình hàng năm có trên 100 nghìn doanh nghiệp đăng ký ra đời. Hiện có hơn 940 nghìn doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động. Tinh thần khởi nghiệp sáng tạo cũng dâng cao. Từ con số startups khá khiêm tốn là 400 vào năm 2012 đã tăng lên khoảng hơn 4.000 năm 2024, trong đó có 11 doanh nghiệp được định giá trên 100 triệu USD.
Cùng với đó, số lượng các tập đoàn tư nhân quy mô lớn đang tăng lên. Trong bảng xếp hạng VNR500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân với doanh thu, tổng tài sản lên tới hàng chục, hàng trăm nghìn tỷ đồng, tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn, hàng chục nghìn lao động và nhiều nghìn tỷ đồng lợi nhuận sau thuế.
Uy tín và giá trị thương hiệu Việt Nam và nhiều tập đoàn, công ty Việt Nam cũng được quốc tế ghi nhận. Theo Brand Finance - tổ chức định giá Thương hiệu quốc gia có trụ sở tại Anh, Việt Nam được đánh giá là điểm sáng trong bức tranh xây dựng, phát triển thương hiệu quốc gia và có tốc độ tăng trưởng giá trị nhanh nhất thế giới giai đoạn 5 năm từ 2019 - 2023 (102%). Năm 2024, giá trị thương hiệu của Việt Nam đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32 trong số 193 quốc gia được đánh giá. Trong Top 100 thương hiệu đắt giá nhất, đã xuất hiện nhiều các tập đoàn/công ty tư nhân ở những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh. Đáng chú ý, các tập đoàn tư nhân thường có tốc độ tăng giá trị thương hiệu nhanh nhất.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã có những bước đi mạnh mẽ trong chuyển hướng chiến lược sản xuất kinh doanh sang lĩnh vực gắn nhiều hơn với công nghệ thông tin và đổi mới sáng tạo như nông nghiệp thông minh, sản xuất xanh, công nghiệp ô tô, điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo… Dấu ấn của doanh nghiệp tư nhân còn thể hiện ở những công trình tầm vóc, phức hợp, đòi hỏi năng lực quản trị, thi công, làm chủ công nghệ cao được hoàn thành có chất lượng. Một số tập đoàn đã quan tâm hơn đến nghiên cứu và phát triển (R&D), thiết lập các viện/trung tâm phục vụ cho công tác này.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể thì doanh nghiệp tư nhân vẫn quanh quẩn ở mức "lượng nhiều, chất yếu". Đến nay, mới chỉ có rất ít doanh nghiệp lớn thực hiện được vai trò dẫn dắt đổi mới sáng tạo và tăng trưởng, R&D vẫn còn mờ nhạt.
Phần lớn (khoảng 98%) các doanh nghiệp hiện nay đang ở quy mô nhỏ và vừa (SMEs). Điều đó là bình thường nhưng điểm không bình thường là đa số lại có quy mô nhỏ, siêu nhỏ; doanh nghiệp vừa chiếm tỷ lệ rất thấp. Sự thiếu vắng ngày càng rõ các doanh nghiệp có quy mô trung bình, nhất là trong công nghiệp chế biến, chế tạo đang cản trở mục tiêu tăng năng suất, chuyên môn hóa và chuyển giao công nghệ.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu nhưng ở vị thế rất yếu trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị. Và thực tế cũng đã chỉ ra tình trạng doanh nghiệp không muốn lớn, không chịu lớn. Nhiều hộ kinh doanh không muốn đăng ký thành lập doanh nghiệp chính thức do sợ gánh nặng "quan liêu" và cách thức quản lý có thể làm tăng chi phí giao dịch.
Ngay cả số lượng doanh nghiệp dù tăng nhưng vẫn còn thấp so với mục tiêu đặt ra (1,5 triệu doanh nghiệp năm 2025), một phần do tỷ lệ doanh nghiệp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, thua lỗ, phải dừng sản xuất, chờ thủ tục giải thể ở mức cao, trung bình 45% trong giai đoạn 2007 - 2017. Từ năm 2018 đến nay, tỷ lệ này liên tục tăng, đặc biệt trong năm 2024 ở mức khoảng trên 80%.
Những trở ngại cả về chính sách, cả trong chính nội tại của doanh nghiệp và cách nhìn nhận của xã hội trong thời gian qua đã khiến doanh nghiệp tư nhân dù đã trưởng thành, có lớn nhưng chưa đủ lớn mạnh để thực sự có thể trở thành một động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế và sự phát triển bền vững của Việt Nam.
PV: Ông hình dung như thế nào về việc chuyển đổi từ "lớn" sang "lớn mạnh" đối với doanh nghiệp tư nhân?
TS. Võ Trí Thành: Trong bối cảnh hiện nay, lớn mạnh cần hiểu theo nghĩa là phải làm chủ được công nghệ và có năng lực sáng tạo cao, tạo dựng được thương hiệu hấp dẫn, được đón nhận không chỉ trong nước mà còn hướng đến được thế giới đón nhận.
Các sản phẩm được tạo ra phải đáp ứng những tiêu chuẩn nâng cao của cuộc cách mạng tiêu dùng mới (xanh, thông minh/thuận tiện, nhân văn…). Năng lực cạnh tranh đo lường bằng chất lượng sản phẩm, bằng khát vọng, tầm nhìn toàn cầu, bản lĩnh, sự dấn thân và chuyên nghiệp, khôn khéo - biết mình, biết ta, tuân thủ luật chơi.
Bản chất của chuyển đổi chiến lược từ "lớn" sang "lớn mạnh" là chuyển đổi giá trị thật của công ty/tập đoàn và tổng hợp lại là cả sự chuyển đổi nâng tầm giá trị của đất nước. Đó là sự thay đổi tư duy, thay đổi quản trị, phát triển kỹ năng và thúc đẩy sáng tạo trong hoạt động của doanh nghiệp để phát triển bền vững, có sức chống chịu cao.
PV: Ở một số lĩnh vực chúng ta có thể cùng đi với thế giới chứ không còn đi sau. Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam trên thực tế đang vươn mạnh ra toàn cầu?
TS. Võ Trí Thành: Việt Nam đã có những doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn cả về vốn và công nghệ cao như Vingroup, FPT, T&T Group, THACO, Vietjet, Vinamilk, TH… với thương hiệu không chỉ được ghi nhận ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường khu vực và quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới sẽ cần nhiều hơn nữa những doanh nghiệp tư nhân lớn, những tập đoàn với thương hiệu mạnh mang tầm quốc tế, góp phần tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước các biến động của thị trường và có sứ mệnh dẫn dắt, hỗ trợ trở lại các doanh nghiệp nội địa khác cùng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Các doanh nghiệp lớn mạnh cùng với sự phát triển của đất nước, thực hiện được khát vọng để Việt Nam thực sự đi cùng với thời đại, thậm chí có những việc chúng ta có thể tiên phong trong thời đại.
Giai đoạn hiện nay, phải thúc đẩy để đội ngũ doanh nghiệp có thể tạo ra được những bước ngoặt mang tính đột phá. Không chỉ dừng lại ở chỗ tuân thủ luật chơi, học hỏi những thông lệ tốt nhất mà còn hơn thế - đó là cách ứng xử với một tầm nhìn, khát vọng đi cùng với sự phát triển của đất nước.
Thực tế đã chứng minh nếu có môi trường phát triển thuận lợi, doanh nghiệp Việt có thể vươn mình mạnh mẽ, làm chủ thị trường nội địa, khẳng định thương hiệu trên thị trường quốc tế, thực sự "sánh vai" với thế giới bằng năng lực cạnh tranh của mình.
PV: Vậy đâu là những vấn đề trọng tâm cần giải quyết để sớm có được một lực lượng doanh nghiệp tư nhân thực sự lớn mạnh, bền vững và đủ sức tận dụng các cơ hội của một nền kinh tế mở, và thời kỳ hội nhập để vươn ra toàn cầu?
TS. Võ Trí Thành: Có nhiều trở ngại khiến khu vực tư nhân phát triển chưa tương xứng thậm chí cách xa so với tiềm năng và kỳ vọng. Đó là những yếu kém trong đảm bảo quyền tài sản, "sân chơi" không công bằng, sự méo mó của các thị trường nhân tố sản xuất, khả năng tiếp cận nguồn lực khó khăn, và chi phí giao dịch cao.
Do đó, điểm mấu chốt là quyết liệt cải cách bộ máy nhà nước theo hướng minh bạch, có khả năng giải trình, hiệu lực, hiệu quả, tạo môi trường kinh doanh không chỉ thuận lợi mà còn an toàn, có thể tiên liệu được. Đồng thời gia tăng quyền bảo hộ tài sản và thực thi chính sách cạnh tranh, giảm thiểu một cách tối đa những méo mó trong việc tiếp cận các nguồn lực vốn, đất đai, nguồn nhân lực chất lượng cao… của doanh nghiệp tư nhân.
Trong bối cảnh mới, nỗ lực tự thân của doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định để "lớn mạnh". Nhưng những hỗ trợ thích hợp, thiết thực của Nhà nước là rất cần thiết cho quá trình đó. Đảm bảo cạnh tranh thị trường và cam kết quốc tế, nhất là trong các Hiệp định thương mại tự do (FTAs) Việt Nam tham gia là nguyên tắc trước hết cần tôn trọng. Bên cạnh đó là thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh để hạn chế độc quyền/quyền chi phối thị trường, từ đó khuyến khích sáng tạo. Cùng với đó, cần đầu tư phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hỗ trợ R&D và chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - kể cả qua đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo.
Ngoài ra cũng có thể tạo lập các cơ chế hỗ trợ tài chính trực tiếp và gián tiếp phù hợp cho doanh nghiệp. Cách hỗ trợ phải là "hỗ trợ người thắng cuộc" (qua kết quả thị trường phản ánh) chứ không phải là "lựa chọn người thắng cuộc". Một khía cạnh quan trọng khác là tăng cường hợp tác công tư (PPP) trong các lĩnh vực chiến lược như cơ sở hạ tầng, năng lượng tái tạo và công nghệ cao nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân nâng cao năng lực quản trị, tham gia sâu vào các dự án lớn, qua đó, tăng cường vị thế của khu vực tư nhân trong nền kinh tế. Rõ ràng, cần một tầm nhìn chiến lược toàn diện, kết hợp giữa nỗ lực tự thân của doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước.
Dư địa để cải thiện không gian phát triển và môi trường kinh doanh cho khu vực tư nhân còn nhiều. Và tôi tin rằng, các điểm nghẽn sẽ được tháo gỡ để tạo ra cú hích lớn trong thời gian tới, đặc biệt là tại Đề án và Nghị quyết về kinh tế tư nhân theo hướng "đúng, trúng, đột phá, đủ mạnh" đang được thúc đẩy hoàn thiện.
Con đường đến đích "khu vực tư nhân thực sự lớn mạnh" còn dài, còn nhiều gian nan, thử thách, nhất là trong bối cảnh con tàu cách mạng công nghiệp 4.0 đã nhổ neo và Việt Nam – một đất nước hội nhập sâu rộng, đang nỗ lực chuyển sang giai đoạn phát triển mới, có tính bước ngoặt, với giá trị gia tăng tạo ra phải dựa nhiều vào công nghệ, đổi mới sáng tạo để tăng năng suất lao động.
Khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp, đang được khoác lên mình sứ mệnh lịch sử đối với tương lai thịnh vượng của quốc gia, dân tộc. (Ảnh minh hoạ)
PV: Có vẻ như việc bắt nhịp với cuộc cách mạng 4.0, xu hướng chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế số sẽ giúp doanh nghiệp lớn nhanh hơn, thưa ông?
TS. Võ Trí Thành: Đúng vậy. Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đã và đang làm thay đổi bản đồ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp lớn trên thế giới, trở thành một ưu tiên mang tính sống còn, đồng thời chính là yêu cầu phát triển tự thân của họ.
Với những bước đi cụ thể, thiết thực, việc chuyển đổi sẽ giúp tăng năng suất, hiệu quả kinh doanh và giá trị thương hiệu doanh nghiệp, qua đó, tạo thuận lợi trong kết nối đối tác, tiếp cận thị trường cũng như thu hút vốn và dòng tài chính xanh, tăng cường sức chống chịu của doanh nghiệp trong một thế giới đầy rủi ro và bất định. Sự chuyển đổi chiến lược thông qua số và xanh sẽ tạo ra bước nhảy vọt vượt bậc về năng lực quản trị, trải nghiệm khách hàng và mô hình kinh doanh.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam ở hầu khắp các lĩnh vực (thương mại, tài chính ngân hàng, giáo dục, y tế, du lịch, logistics, công nghiệp chế tạo,..) đã bắt tay vào công cuộc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Không ít doanh nghiệp đã tuyên bố và nỗ lực để thực sự trở thành doanh nghiệp số, doanh nghiệp phát triển bền vững. Nhưng phải thấy rõ, đây là một tiến trình đầy gian nan, cũng không có đáp án sẵn cho mọi doanh nghiệp.
Trong vấn đề này, có 4 bài học đã được đúc rút.
Thứ nhất, cần gắn chuyển đổi số, chuyển đổi xanh với chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, với ý nghĩa hết sức coi trọng mối quan hệ mật thiết giữa công cuộc chuyển đổi này với sự phát triển bền vững của công ty. Không ít khảo sát đã cho thấy thành công đến từ sự gắn kết này cùng sự sẵn sàng điều chỉnh cho phù hợp trên thực tế.
Thứ hai, thay đổi căn bản và thực chất cách thức quản trị doanh nghiệp. Các tiêu chuẩn ESG (môi trường, xã hội, quản trị) phải được tích hợp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nguyên tắc định hướng của quản trị trong bối cảnh mới là phải đủ nhanh, đủ linh hoạt; có thể thử nghiệm, học hỏi và lặp lại nhưng phải tính tới sự phối hợp đầy đủ giữa các bên liên quan cùng sự cởi mở trong việc hợp tác. Chúng khác biệt rất nhiều so với cách tiếp cận truyền thống - thường tương đối tuyến tính, tốn kém thời gian và theo kiểu từ trên xuống.
Thứ ba là "nghĩ lớn, làm cụ thể". Tầm nhìn chiến lược trong việc chuyển đổi phải đủ xa, đủ sâu, song cần bắt đầu thực thi quyết liệt từ những việc nhỏ nhất, có tính sáng tạo, thiết thực và mức độ lan tỏa cao.
Sau cùng, lãnh đạo doanh nghiệp phải phải đi tiên phong trong tiến trình này. Chính họ là người phải đối mặt nhiều nhất với các công việc, quy trình liên quan đến kiến thức số, kiến thức xanh, các xu hướng chuyển đổi.
Trước kia vấn đề thu nhập, tăng trưởng rất quan trọng nhưng hiện tại phát triển bền vững mới là ưu tiên hàng đầu. Trước kia là kinh tế tuyến tính, bây giờ là kinh tế tuần hoàn. Chuyển đổi xanh là cuộc cách mạng, gắn liền với công nghệ. Trong bối cảnh này, doanh nghiệp phải "vừa làm vừa chạy", không thể chờ được. Thị trường không có chờ, "khát vọng Việt Nam 2045", cam kết Netzero cũng không có chờ. Doanh nghiệp phải chủ động nâng mình lên, nếu cứ chờ, thị trường sẽ tự động đào thải.
PV: Nói đến phát triển doanh nghiệp, ông hay nhắc tới cụm từ "xây nhà từ móng" với hàm ý nói đến tầm quan trọng của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trên thực tế, như ông nói, chúng ta đang rất thiếu doanh nghiệp quy mô vừa để có thể chuyển mình thành doanh nghiệp lớn về dài hạn, trong khi lượng doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ - dễ bước sang nhóm chờ giải thể rất đông đảo. Đây có phải là thách thức lớn cần hóa giải?
TS. Võ Trí Thành: Sẽ không có một khu vực tư nhân năng động cũng như các doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh nếu thiếu sự phát triển lành mạnh của SMEs và startups. Chính SMEs là khu vực đóng góp lớn nhất cho cạnh tranh trên thị trường; không có cạnh tranh thì không còn thị trường. Cùng với startups, họ còn là khởi nguồn của tinh thần kinh doanh.
Suy cho cùng, sáng tạo là cá nhân, trong nhiều trường hợp bắt nguồn từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (kể cả siêu nhỏ). Ở các quốc gia phát triển, có không ít doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng rất "quyền lực", uy tín cao, thương hiệu có giá trị vì sản phẩm của họ có bí quyết sáng tạo riêng, trở thành một phần không thể thiếu trong chuỗi giá trị, mạng lưới sản xuất của chính các tập đoàn, công ty lớn. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cùng với xu thế tích tụ còn là xu thế "nhỏ đi", "cá thể hóa" trong kinh doanh. Nhỏ mà có công nghệ, thương hiệu, hình ảnh thì họ cũng thuộc loại… lớn.
Tạo dựng một khung khổ pháp lý, hạ tầng và chính sách hỗ trợ thích hợp cùng với sự quyết liệt thực thi, đặc biệt liên quan đến các vấn đề như chuyển giao công nghệ, tài chính và đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, quyền sở hữu trí tuệ,… là trọng tâm cần ưu tiên. Thiết lập hệ thống sáng tạo quốc gia lấy doanh nghiệp và thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo làm trung tâm chính là đòn bẩy cho công cuộc này. Sự kết hợp giữa tài chính vững chắc, công nghệ hiện đại, nhân lực chất lượng và chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ giúp SMEs phát triển bền vững trong thời đại cạnh tranh khốc liệt.
Quay trở lại câu hỏi, để thúc đẩy nhanh hơn quá trình phát triển từ doanh nghiệp nhỏ thành doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp vừa thành doanh nghiệp lớn, không cách nào khác là phải tạo ra môi trường để các SMEs "dám lớn", dám vươn lên, đổi mới sáng tạo.
Ngay mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị về thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong đó một trong những nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thiện chính sách, pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp. Thủ tướng yêu cầu trong năm 2025 giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính; bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận tài chính, tín dụng, cơ hội đầu tư, kinh doanh. Ưu tiên bố trí nguồn lực hỗ trợ phát triển tập trung vào hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh tham gia chuỗi giá trị. Đặc biệt thúc đẩy đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân lớn, để tạo động lực dẫn dắt, lan tỏa, kích hoạt đầu tư đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Sự thúc đẩy của chính sách là bước tiến lớn để chúng ta có thể tin rằng, thách thức này có thể sớm được hóa giải. Doanh nghiệp tư nhân sẽ lớn mạnh không chỉ về quy mô, số lượng mà còn cả chất lượng, năng lực cạnh tranh ở mức độ toàn cầu.
Trước đây, bối cảnh rất khó khăn, hậu quả chiến tranh, cấm vận còn nặng nề, việc cải cách rất gian nan nên chúng ta cần phải thí điểm, đi từng những bước nhỏ; còn hiện nay, thế và lực của đất nước đã khác, chúng ta cần rút kinh nghiệm từ bài học cũ, thực hiện nhanh hơn, tốt hơn để tạo sức đột phá, lan tỏa lớn hơn.
Để tranh thủ được cơ hội, nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp cần nhất là hệ thống pháp luật kinh doanh minh bạch, công bằng, lành mạnh và mang tính kiến tạo với các thủ tục hành chính, thủ tục tiếp cận đất đai, nguồn lực tài chính đơn giản và thuận tiện.
PV: Môi trường, thể chế rất quan trọng, nhưng có những vấn đề thuộc về nội tại của doanh nghiệp thì sao, thưa ông?
TS. Võ Trí Thành: Trong năng lực nội tại có vấn đề văn hóa kinh doanh. Có tự tin không? Có ăn xổi ở thì không? Nếu tư duy kiểu ăn xổi thì không thể học hỏi. Bởi đây là một quá trình cần chấp nhận khó khăn, rủi ro để vươn lên. Sân chơi lớn, cạnh tranh khốc liệt. Mình đi sau có dám làm, có tự tin để vươn lên?
Năng lực cạnh tranh không đơn thuần là cải thiện kỹ năng, ứng dụng công nghệ mà còn là văn hóa hội nhập. Dám thử sức, nhanh nhạy học hỏi, sáng tạo và biết cách "chơi".
Kim ngạch xuất khẩu hiện tại, hơn 70% là đóng góp của doanh nghiệp FDI. Tất nhiên, mình đi sau thì phải gắn kết và nhờ họ. Nhưng đất nước hội nhập sâu, rộng mà lực lượng doanh nghiệp thực sự hội nhập hiệu quả, chơi được, biết chơi, khéo chơi không nhiều. Đó là vấn đề.
Chúng ta có tin vào chính chúng ta không? Niềm tin rất quan trọng. Khi tin thì mới nỗ lực, học hỏi, ngẫm nghĩ, suy tư, đau đáu về nó để tìm ra cách, tạo ra nguồn lực, xung lực để đưa doanh nghiệp mình đi lên, đưa đất nước phát triển. Niềm tin ấy không phải viển vông mà có căn cứ. Hãy nhìn lại dòng chảy của 40 năm qua với những bươn chải và nỗ lực trưởng thành của hàng trăm nghìn doanh nghiệp để thấy sức mạnh của chúng ta lớn lắm.
Tôi thường nói, phải viết hoa chữ DOANH NHÂN bởi đây là biểu tượng của khát vọng, sự dấn thân và làm giàu không chỉ cho riêng mình mà còn cho doanh nghiệp, cho đất nước.
Thời cơ thể hiện bản lĩnh, ý chí vươn lên, bắt kịp và đi cùng thời đại của Việt Nam đang ở ngay trước mắt. Không thể chậm trễ hơn trong việc thực hiện các cải cách, đổi mới khi kinh tế tư nhân quyết định tới hơn 50% chất lượng GDP và mục tiêu đến năm 2030 là 70% và nhiều hơn thế nữa. Không chỉ cần tạo dựng các công ty/tập đoàn tư nhân lớn mạnh mà căn cơ hơn, cần tạo dựng nền móng tốt nhất cho SMEs và startup ra đời và phát triển. Đây chính là những hạt mầm cho sự hình thành các doanh nghiệp có khả năng sáng tạo, có thương hiệu toàn cầu và đi đầu trong tương lai. Chúng ta không thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, và cũng không thể đổi mới mô hình tăng trưởng một cách thực chất nếu khu vực kinh tế tư nhân không chuyển mình mạnh mẽ, tăng trưởng ở tốc độ cao dựa trên công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Ở giai đoạn dân mù chữ nhiều, đất nước còn khó khăn, Bác Hồ đã dặn phải học hành để sánh vai với các cường quốc năm châu. Bối cảnh hiện tại đã khác, hội nhập đã giúp chúng ta có tất cả mọi thứ, nếu thiếu chắc chỉ thiếu mỗi ý chí, quyết tâm thôi. Cơ hội hiện hữu trước mắt, lẽ nào không vươn lên được nữa.
Nói rộng ra, kinh tế tư nhân là tất cả chúng ta. Mỗi cá nhân, doanh nghiệp hướng về đất nước trong kỷ nguyên mới này đều cần phải ươm dưỡng nhiệt huyết, nỗ lực, học hỏi, vượt lên chính mình và dám nghĩ lớn, làm lớn để viết tiếp hành trình đổi mới tiếp theo và vươn tới khát vọng phồn vinh 2045.
PV: Theo cảm nhận của ông, doanh nghiệp tư nhân đã có sự thay đổi trong ý chí, quyết tâm, khát vọng và niềm tin ở thời điểm hiện nay khi mà không gian cải cách thể chế dường như đang rất rộng mở?
TS. Võ Trí Thành: Tôi thấy khát vọng đang được thôi thúc trỗi dậy. Có một sự hứng khởi và kỳ vọng rất lớn vào những đột phá thể chế sắp tới. Nhưng bên cạnh chữ tin, dường như vẫn đang có chút đắn đo, lăn tăn chữ "nếu", liên quan đến thực thi chính sách và chuyển biến thực chất về nhận thức đối với khu vực tư nhân.
Nghị quyết về kinh tế tư nhân đang được xây dựng và sớm ban hành sẽ là động lực quan trọng, góp phần giải tỏa được chữ "nếu" này. Nhưng có một điều có thể khẳng định là, từ trước đến nay, chưa bao giờ, tôi thấy doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có nhiều niềm tin, khát vọng như lúc này.
Chúng ta hãy cùng chờ đón bước nhảy vọt của nền kinh tế trong kỷ nguyên mới và tôi tin rằng, dấu ấn của kinh thế tư nhân, doanh nghiệp tư nhân sẽ rất rất đậm nét. Có thể gọi đó là những "dấu chân thịnh vượng"/.
- Trân trọng cảm ơn ông vì những gợi mở hữu ích và đầy cảm hứng với Reatimes!
Tổng kết 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã chuyển mình từ một nước nghèo vươn lên thành quốc gia đang phát triển, thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng và giữ vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Những thành tựu vĩ đại đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy đủ nội lực cho sự phát triển bứt phá tiếp theo. Gắn liền với hành trình ấy là sự phát triển không ngừng, dấu ấn và đóng góp khó đong đếm của khu vực kinh tế tư nhân, nòng cốt là các doanh nghiệp tư nhân.
Mùa xuân năm 2025 được xác định là thời điểm bản lề, chuẩn bị bắt đầu kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, là thời điểm hội tụ, tổng hòa các lợi thế, ý chí, quyết tâm cùng khát vọng, niềm tin, khí thế mới để có thể tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát và tự tin nâng cao nội lực của đất nước, vượt qua thách thức, nắm bắt cơ hội vươn tới những mục tiêu lớn lao hơn.
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhấn mạnh "để vuột mất cơ hội là có lỗi với lịch sử", Tổng Bí thư yêu cầu cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế một cách mạnh mẽ, quyết liệt và toàn diện hơn để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên thịnh vượng, giàu mạnh và phát triển.
Trong bối cảnh đó, kinh tế tư nhân đang được xem xét, định hình trở thành trụ cột quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Không có kinh tế tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thì sẽ không có nền kinh tế quốc gia vững mạnh, tự chủ và có sức chống chịu tốt. Cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đột phá được đánh giá là then chốt để đạt được các mục tiêu đặt ra, trước mắt là tăng trưởng kinh tế 2 con số. Một nghị quyết mới về kinh tế tư nhân đang được mong chờ sẽ tạo ra những cải cách mạnh mẽ, thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân đẩy nhanh quá trình đổi mới, thay đổi cơ cấu và vươn tới những giới hạn cao nhất của nền kinh tế; tạo nền tảng cho khả năng vươn mình thành những doanh nghiệp đa quốc gia và góp phần định hình kỷ nguyên mới của đất nước.
Tương lai của nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc lớn vào khu vực kinh tế tư nhân. Được khuyến khích và hun đúc thêm hào khí dân tộc, khẳng định vị thế và tạo ra những cảm hứng phát triển mới, tin rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ còn ghi dấu ấn bằng những bước tiến đột phá trong kỷ nguyên vươn mình, quyện hòa giữa khát vọng làm giàu và tinh thần dân tộc, xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường. Lựa chọn phát triển kinh tế tư nhân là con đường ngắn nhất để vượt qua những khó khăn hiện tại và vươn tới tương lai thịnh vượng.
Đầu tháng 3, chủ trì buổi làm việc với Ban Chính sách và Chiến lược Trung ương về một số giải pháp chiến lược nhằm tạo đột phá phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam trong thời gian tới, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục đổi mới tư duy và tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân, xóa bỏ những định kiến, tư duy không đúng để tạo sự thay đổi trong "ứng xử" và hành động, chính sách cụ thể đối với khu vực kinh tế quan trọng này, đồng thời phải có chiến lược rõ ràng cho phát triển kinh tế tư nhân.
Trong bài viết "Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", Tổng Bí thư khẳng định: Chúng ta cần phải quán triệt lại định hướng quan điểm và nhận thức trong cả hệ thống chính trị về vai trò của kinh tế tư nhân như là động lực tăng trưởng quan trọng hàng đầu của đất nước. Điều này đòi hỏi một sự thay đổi căn bản trong hoạch định chính sách, khắc phục những hạn chế và phát huy tính ưu việt của cơ chế thị trường để hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân nâng cao năng suất lao động và đổi mới sáng tạo.
Chuỗi đối thoại chính sách với chủ đề: Sứ mệnh lịch sử của kinh tế tư nhân trên Reatimes.vn, thông qua những cuộc thảo luận sâu sắc với các chuyên gia hàng đầu, sẽ khắc họa rõ nét và đưa ra những hình dung cụ thể về đóng góp của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong hành trình 40 năm Đổi mới của đất nước và nhìn nhận về vị thế, vai trò của khu vực kinh tế này đối với cuộc đổi mới lần thứ 2 trong kỷ nguyên vươn mình. Đồng thời, làm rõ những rào cản, thách thức đang nhấn chìm khát vọng của khối doanh nghiệp tư nhân; kiến nghị chính sách để tạo đường băng rộng mở cho kinh tế tư nhân cất cánh.
Trân trọng giới thiệu tới độc giả!