Aa

Nhìn lại hành trình kiến nghị sửa đổi khoản 3, Điều 8 Nghị định 20

Thứ Năm, 25/06/2020 - 06:00

Đó là một hành trình dài, các doanh nghiệp cùng Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử bất động sản Việt Nam và nhiều cơ quan báo chí khác nỗ lực kiến nghị, phản biện về việc sửa đổi bất cập của khoản 3, Điều 8 Nghị định 20/2017/NĐ-CP đã đè nặng các doanh nghiệp nội gần 3 năm qua...

Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 8, Nghị định 20/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết (Nghị đinh sửa đổi) đã chính thức được thông qua ngày 24/6. Nghị định sửa đổi đã nâng mức trần khống chế chi phí lãi vay từ 20% lên 30%, đồng thời cho phép chuyển chi phí lãi vay không được trừ sang kỳ tính thuế 5 năm tiếp theo cho phép hồi tố xử lý đối với năm 2017, 2018. Theo đó, hơn 1.000 doanh nghiệp sẽ được “giải cứu” với số tiền bồi hoàn lên đến gần 5.000 tỷ đồng.

Đây là một tin mừng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh bị tác động mạnh và đang dần “thấm đòn” dịch Covid-19 khi không những được giảm chi phí lãi vay mà còn có thêm nguồn tài chính để phục hồi sản xuất, kinh doanh sau dịch.

Cùng Reatimes nhìn lại quá trình nảy sinh những bất cập khi áp dụng Nghị định 20 và hành trình “tìm lại chính mình” của quy định khống chế chi phí lãi vay đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết tại khoản 3 Điều 8 của Nghị định này.

Doanh nghiệp nội kêu cứu

Được đặt ra nhằm mục đích chống chuyển giá, nhưng hơn 3 năm qua, cùng với nhiều hạn chế, Nghị định 20 đã gần như “đi sai đường” khi vô tình đẩy doanh nghiệp nội vào thế khó.

Vào tháng 5/2017, Nghị định 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết chính thức có hiệu lực. Nghị định 20 và Thông tư 41/2017 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành đã đưa ra theo hướng cụ thể, chi tiết hơn so với các quy định trước đây về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết về nguyên tắc, phương pháp, trình tự, thủ tục xác định giá giao dịch liên kết; nghĩa vụ của người nộp thuế trong kê khai, xác định giá của giao dịch liên kết và kê khai nộp thuế; trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước.

Đây được cho là dấu mốc quan trọng trong hệ thống quy định pháp luật về giao dịch liên kết, đưa Việt Nam tiến gần hơn đến các chuẩn mực quốc tế về gia tăng tính minh bạch và nỗ lực chống trốn thuế.

Mục tiêu của Nghị đinh 20 là để chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực tiễn, nhiều doanh nghiệp nội lại đang bị “vạ lây”, đặc biệt các tập đoàn hoạt động theo mô hình mẹ - con, trong đó, ngành bất động sản với đặc trưng là phải có nhiều công ty con để đứng ra đấu thầu và triển khai nên việc vay càng nhiều càng thiệt là điều khó tránh khỏi.

Cụ thể, khoản 3, Điều 8 Nghị định 20 quy định: "Tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 20% tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh, cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao của doanh nghiệp".

Điều này có thể hiểu, với phần chi phí lãi vay của doanh nghiệp vượt quá 20% sẽ bị coi là chi phí không hợp lý và bị tính thuế.

Nếu áp theo điều khoản này, chi phí lãi vay của các doanh nghiệp có giao dịch liên kết sẽ bị tính thành 2 lần, nguy cơ “lỗ chồng lỗ”. Với những nhóm ngành cần vốn để tạo lợi nhuận và mở rộng quy mô, thì Nghị định 20 được ví như một "cú đòn" hạ gục quyết tâm của doanh nghiệp.

Ngay từ khi Nghị định 20 về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có phát sinh giao dịch liên kết ban hành, nhiều doanh nghiệp trong nước đã “hốt hoảng” khi nhận ra đối tượng bị điều chỉnh lại là cả các doanh nghiệp Việt, chứ không đơn thuần là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, năm 2018, các doanh nghiệp đã đồng loạt lên tiếng, gửi kiến nghị lên Bộ Tài chính và Tổng cục thuế về những bất cập của việc khống chế chi phí vay của Nghị định 20.

Tổng công ty Lắp máy Việt Nam Lilama lên tiếng khẳng định quy định đang tạo ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp có quan hệ liên kết và không liên kết:

"Chi phí lãi vay của tổng công ty phát sinh thực tế từ việc vay vốn tại các tổ chức tín dụng, theo giá thị trường có hồ sơ, chứng từ hợp lệ. Do vậy, quy định về mức trần trên tổng chi phí lãi vay được trừ bao gồm cả giao dịch liên kết và giao dịch độc lập là chưa phù hợp với bản chất, mục đích của việc quản lý thuế đối với giao dịch liên kết.

Để thực hiện các dự án quy mô vừa và lớn, Lilama phải huy động lượng vốn vay lớn từ các tổ chức tín dụng dẫn đến chi phí lãi vay cao, vượt xa mức trần theo quy định của Nghị định 20. 

Lilama hoạt động theo mô hình mẹ - con để hỗ trợ nhau thực hiện các công trình lớn. Bản chất các giao dịch của công ty chỉ nhằm mục đích tăng năng lực cạnh tranh, tập trung chuyên môn hoá cho từng công ty trong tổng công ty. Nếu tránh quy định về mức trần chi phí lãi vay, tránh không có các giao dịch liên kết, Lilama sẽ buộc phải thuê nhà thầu bên ngoài. Điều này làm giảm năng lực cạnh tranh, không định hướng được chiến lược phát triển, một số công ty giảm việc làm và dẫn tới nguy cơ phá sản”.

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cũng cho biết đã gặp rất nhiều vướng mắc, thậm chí thiệt hại khi áp dụng Nghị định 20. Cụ thể, tập đoàn này hoạt động theo mô hình mẹ - con, trong đó, các giao dịch liên kết chính và lớn liên quan đến hoạt động kinh doanh mua bán điện và giao dịch "cho vay lại".

Trong giai đoạn sắp tới, nhu cầu điện tăng cao khiến việc đầu tư dự án điện mới của EVN rất lớn. Tuy nhiên, vốn tự có của doanh nghiệp không đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư nên EVN và các thành viên vẫn phải huy động nguồn vốn vay trong và ngoài nước, đặc biệt trong giai đoạn 2017 - 2025.

"Nếu tính theo Nghị định 20, tình hình tài chính của EVN và các tổng công ty phát điện là rất lớn, gây khó khăn trong cân đối vốn đầu tư của EVN khi thực hiện các dự án điện thuộc Quy hoạch điện của Chính phủ. Theo đó, EVN Genco 1 phải nộp thêm 339 tỷ đồng, EVN Genco 3 phải nộp thêm 216 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp", EVN tính toán.

Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam cũng đã triển khai nhiều loạt bài phản ánh ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp và ý kiến của giới nghiên cứu. Từ phản ánh của các doanh nghiệp, giới chuyên gia cũng đã đồng loạt nêu ý kiến, chỉ rõ những điểm bất hợp lý, gây khó khăn cho doanh nghiệp nội trong khoản 3, Điều 8, Nghị định 20.

Mũi tên “lệch” đích, dồn doanh nghiệp nội vào thế khó

Chuyên gia kinh tế - tài chính - TS. Nguyễn Trí Hiếu: Nghị định 20 nhắm vào doanh nghiệp có giao dịch liên kết nhằm gia tăng tính minh bạch và nỗ lực chống thất thu. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp nội không có công ty liên kết bên ngoài thì không phù hợp và đặc biệt là có thể gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp hoạt động theo mô hình mẹ - con trong nước. Việc áp trần chi phí lãi vay đối với doanh nghiệp nội là chưa công bằng, sẽ có một nhóm doanh nghiệp phải gánh trách nhiệm nặng nề cho những doanh nghiệp khác trốn thuế.

PGS.TS. Lê Xuân Trường, Khoa Thuế - Hải quan, Học viện Tài chính: Về mức trần lãi vay 20%, tôi cho rằng con số này tương đối thấp, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn, đặc biệt là bất động sản. Môi trường đầu tư hiện nay là bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt trong pháp luật về thuế lại càng phải bình đẳng.

Tuy nhiên, với những lĩnh vực đặc thù, cần lượng vốn đầu tư lớn thì phải nghiên cứu lại tỷ lệ khống chế trần lãi vay, có thể là lớn hơn mức 20%. Theo đó, cần phải có một khảo sát nghiêm túc, khoa học để có tính toán chính xác, đưa ra số liệu chứng minh mức độ khống chế lãi vay phù hợp, 25% hay 30% hay một con số phần trăm khác. Nhưng quan trọng nhất là diễn đạt lại khoản 3, Điều 8 cho rõ ràng hơn để chỉ hiểu theo một cách mà không theo nhiều cách gây hỗn loạn và hoang mang cho doanh nghiệp.

Để không làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp làm ăn chân chính, cần phân định rõ đâu là doanh nghiệp liên kết có động cơ chuyển giá cần phải khống chế, đâu là doanh nghiệp nằm ngoài phạm vi và được miễn kê khai cũng như không khống chế lãi vay.

Nếu các doanh nghiệp không có động cơ chuyển giá, ví dụ như họ có quan hệ giao dịch vay vốn giữa công ty mẹ và công ty con, thuế suất của họ là bằng nhau, đều áp dụng một mức thuế suất phổ thông, không có ưu đãi thuế thì họ phải thuộc trường hợp không bị khống chế lãi vay theo Nghị định 20. Còn nếu không phân định rõ mà khống chế lãi vay cả những trường hợp này, tất yếu sẽ tạo ra rào cản việc cho vay nội bộ giữa công ty mẹ và công ty con, làm mất đi khả năng điều tiết sức mạnh chung của một tập đoàn và cơ hội đầu tư dài hạn vào các ngành nghề cần vốn lớn, có ý nghĩa lâu dài cho nền kinh tế.

Theo đó, chỉ các doanh nghiệp liên kết nhưng khác biệt về thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, có ưu đãi thuế hay có động cơ chuyển giá mới bị khống chế lãi vay theo Nghị định 20 thay vì “ôm trọn” vào tất cả các doanh nghiệp như hiện tại.

Chuyên gia thuế Nguyễn Thái Sơn kiến nghị: “Bộ Tài chính nên đề xuất Chính phủ sửa Nghị định 20 theo hướng: Quy định khống chế lãi tiền vay tại Nghị định 20 chỉ nên áp dụng đối với hai đối tượng doanh nghiệp: Một là, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quan hệ liên kết qua biên giới; Hai là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam có giao dịch về vay vốn với các bên có quan hệ liên kết có mức thuế thu nhập doanh nghiệp khác nhau".

TS. Bùi Trinh, Chuyên gia thống kê đánh giá: "Nghị định này lại như quất mạnh vào các doanh nghiệp nội vốn đã rất còm cõi. Tổn thương nặng nề nhất cũng rơi vào các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, đặc biệt những doanh nghiệp đang đầu tư vào những ngành trọng điểm cần số vốn rất lớn như nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, dệt may, da giày, chế biến thủy hải sản, kinh doanh bất động sản.

Trước tác động không ngờ của Nghị định 20, trên cơ sở các ý kiến của doanh nghiệp, chuyên gia, ngày 14/12/2018, Hiệp hội Bất động sản Việt Nam đã tổ chức Hội thảo: “Nghị định số 20/2017/NĐCP: Một số vấn đề bất cập và giải pháp tháo gỡ”. Tại đây, Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam và các cơ quan báo chí khác cùng với các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế, tài chính, các doanh nghiệp bất động sản và lãnh đạo bộ ngành liên quan đã “mổ xẻ” những vấn đề bất cập cần sửa đổi trong Nghị định 20.

Dưới đây là một số ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo:

Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật Basico: Quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết là cần thiết, tuy nhiên, cơ sở pháp lý và nội dung đang được quy định tại Nghị định số 20 còn những điểm chưa hợp lý, cụ thể như sau:

Không đủ cơ sở pháp lý:

“Giao dịch liên kết” bị hạn chế quyền của cá nhân và pháp nhân, nên phải được điều chỉnh trong một đạo luật theo quy định tại khoản 2, Điều 2 về “Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trong khi đó, cụm từ “giao dịch liên kết” mới chỉ được giải thích trong khoản 3, Điều 4 về “Giải thích từ ngữ” và Điều 5 “Các bên có quan hệ liên kết” (tương tự quy định về “người có liên quan”), Nghị định số 20/2017/NĐ-CP. Ngoài ra, cụm từ “giao dịch liên kết” cũng được đề cập đến trong quy định về thuế tiêu thụ đặc biệt và việc chuyển giao công nghệ.

Như vậy, việc quy định hạn chế trong “giao dịch liên kết” chỉ bảo đảm cơ sở pháp lý sau khi đã được quy định trong Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đang trình Quốc hội xem xét thông qua

Quy định không hợp lý:

Thứ nhất, trường hợp doanh nghiệp thật sự phải chi trả chi phí lãi vay cao hơn tỷ lệ khống chế nói trên, thì quy định của Nghị định là trái luật, vi phạm quyền huy động vốn từ mọi nguồn một cách hợp pháp để phục vụ nhu cầu kinh doanh.

Thứ hai, quy định “tổng chi phí lãi vay” “không vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần...” không phù hợp với một số doanh nghiệp, chưa tính đến yếu tố có hay không có “giao dịch liên kết”. Vì nhìn chung, doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu vốn, nên phải đi vay là chủ yếu; trong khi năng lực hạn chế, tài sản bảo đảm ít, không đủ sự tín nhiệm để vay với lãi suất thấp, nên phải vay với lãi suất cao của mọi đối tượng từ các tổ chức tín dụng, công ty mẹ, công ty liên kết, cho đến người lao động và cá nhân, doanh nghiệp khác. Do đó, nếu “tổng chi phí lãi vay” trên 20%, thậm chí 50% mà là chi phí thật, hợp lý, hợp lệ thì cũng cần phải được chấp nhận.

Thứ ba, trong mọi trường hợp, tỷ lệ 20% nói trên là nhằm đặt ra giới hạn với mục đích hạn chế tình trạng chuyển giá, dẫn đến thất thu thuế. Vì vậy, không có lý gì áp đặt đối với các công ty Việt Nam cho nhau vay vốn, kể cả đối với giao dịch liên kết, nếu như không nhằm mục đích chuyển giá, trốn, giảm nghĩa vụ nộp thuế.

Áp dụng không hợp lý:

Về thực chất, Nghị định này chủ yếu nhằm vào mục tiêu chống chuyển giá và chống thất thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đặc biệt là quy định tại Điều 10 về “Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế trong kê khai, xác định giá giao dịch liên kết” và khoản 1, Điều 11 về “Các trường hợp người nộp thuế được miễn kê khai, miễn lập Hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết” của Nghị định số 20/2017/NĐ-CP.

Khác với các giao dịch liên kết đa quốc gia, về mối quan hệ giao dịch liên kết ở trong nước giữa các doanh nghiệp với nhau, thì về cơ bản chi phí của doanh nghiệp này sẽ là thu nhập của doanh nghiệp khác và tất cả đều nộp thuế ở Việt Nam.

Do vậy, nếu các cơ quan thuế bắt bẻ các doanh nghiệp Việt Nam trong trường hợp tổng số thuế phải nộp tại Việt Nam giữa các doanh nghiệp có giao dịch liên kết không giảm đi hoặc giảm một cách không đáng kể là quá máy móc, không cần thiết, không đúng với tinh thần và mục đích quy định của pháp luật.

Ông Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế Quốc hội: 

Nghị định 20 là trái với quy định của luật. Nếu trái quy định Hiến pháp thì chắc chắn phải bãi bỏ và phải thay thế bằng một văn bản khác. Bãi bỏ theo quy định của luật thì có thể bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần, không thể nói trái luật mà không bãi bỏ được. Chúng ta sẽ trả lời thế nào nếu Chính phủ ban hành một văn bản sai luật?

Thứ hai, về phạm vi, đối tượng điều chỉnh quy định, mục đích ban đầu của Nghị định này là chống chuyển giá, chống chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, áp dụng với các giao dịch liên kết. Và theo như thông lệ quốc tế đó là xuyên biên giới, khi sửa lại Nghị định cũng cần xem lại phạm vi đối tượng áp dụng.

Về cách làm, tôi cho rằng, Nghị định phải dừng lại, hoặc Chính phủ tự mình sửa hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, là cơ quan có quyền yêu cầu Chính phủ hoặc một số Ủy ban có liên quan của Quốc hội như Uỷ ban Kinh tế, Uỷ ban Ngân sách... cần ngồi lại để bàn, gỡ cho doanh nghiệp.

TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển kinh doanh: “Mục tiêu chuyển thu nhập thuế từ quốc gia có suất thu nhập thuế cao sang thấp. Còn trong nội địa Việt Nam thì thuế suất như nhau, tôi đề nghị Nghị định 20 chỉ áp dụng cho doanh nghiệp xuyên biên giới, không áp dụng cho doanh nghiệp nội địa Việt Nam. Chúng ta thấy rằng rất nhiều nước chưa áp dụng, nhất là những nước nghèo như Việt Nam. Còn tỷ lệ là 20% thấp hay cao, tôi nghĩ cần xem lại tỷ lệ cho hợp lý. Tóm lại, với Nghị định 20, tôi thấy chỉ nên áp dụng cho doanh nghiệp xuyên biên giới, không nên phân biệt đối xử theo ngành nghề, quy mô, càng gây rắc rối”.

Bà Nguyễn Thị Hải Yến, đại diện Tập đoàn Masan:

Chúng tôi hoạt động theo mô hình tập đoàn, quản lý tập trung. Sau đó, phân bổ nguồn vốn xuống cho các công ty con. Thực tế, các công ty con không đủ uy tín, vốn nên các công ty mẹ phải đứng ra mới có thể huy động được vốn.

Tôi cho rằng không nên nói các doanh nghiệp có cùng thuế suất mới được miễn trừ, cần xem xét bản chất khoản vay có từ bên thứ 3 không và chi phí đó có hợp lý hay không, mang lại doanh thu hay không?

Nghị định 20 cần phải rõ ràng hơn trong quy định về phạm vi, nguyên tắc áp dụng, theo đó, chỉ doanh nghiệp nằm trong phạm vi, mới bị điều chỉnh theo Nghị định 20: Nếu không nằm trong phạm vi đó, tại sao lại áp dụng? Nếu chúng tôi có giao dịch liên kết nhưng không có bất kỳ biểu hiện nào chuyển giá thì sao lại áp dụng?

Chúng tôi chỉ có trách nhiệm kê khai, còn việc xác định giá giao dịch liên kết và không công nhận các yếu tố làm ảnh hưởng nghĩa vụ thuế là trách nhiệm của cơ quan thuế. Nếu chúng tôi không có yếu tố làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ thuế thì tại sao lại áp đặt với Nghị định 20?

Ông Trương Anh Tuấn - Chủ tịch Công ty TV-TM-DV địa ốc Hoàng Quân: Hầu hết các tập đoàn về bất động sản đều có công ty liên kết. Việc liên kết này còn diễn ra ở cá nhân, ở một dự án hay một sản phẩm. Vì vậy, các cá nhân cũng bị ảnh hưởng bởi Nghị định này. Chưa kể, một dự án cũng được tính vào quy định này. Khi hợp tác, doanh nghiệp bỏ vốn vào dự án cũng sẽ bị ảnh hưởng, điều đó khiến không ai dám bỏ vốn vào đầu tư dự án.

Chúng ta rất mừng là Chính phủ đã khuyến khích các startup. Nhiều hộ gia đình, cá thể đã chuyển sang mô hình startup. Nhưng việc áp dụng Nghị định 20 thực tế đã khiến việc kêu gọi vốn gặp khó khăn. Các nhà đầu tư phải đặt cược rất lớn.

Sau Hội thảo, Hiệp hội Bất động sản Việt Nam đã có văn bản gửi Chính phủ đề xuất các kiến nghị liên quan.

Chính phủ yêu cầu sửa Nghị định 20

Lắng nghe ý kiến của các chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp, ngày 1/4/2019, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ban hành Chỉ thị 09/CT-TTg về các giải pháp tập trung tháo gỡ cho sản xuất kinh doanh, trong đó yêu cầu Bộ Tài chính đề xuất nội dung và thời điểm sửa đổi, bổ sung Nghị định số 20/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 và các giải pháp để quản lý thuế hiệu quả đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết, báo cáo Chính phủ trong tháng 4/2019.

Cuối tháng 7/2019, đại diện Tổng cục Thuế cho biết, thực hiện Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 1/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã thực hiện tổng kết 2 năm thực hiện Nghị định 20 và tiến hành rà soát, đánh giá tính phù hợp của quy định về giới hạn chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với các quy định, thông lệ quốc tế và thực tiễn công tác quản lý thu thuế.

“Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã báo cáo về kết quả thực hiện Nghị định 20, trong đó đã nêu những đề xuất, những cách thức giải quyết. Theo đó, Bộ Tài chính đang xây dựng các nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ ngày 1/7/2020, trong đó có nghị định thay thế Nghị định 20. Chúng tôi ghi nhận ý kiến đóng góp của các hiệp hội, ngành hàng, các doanh nghiệp về Nghị định 20 nói chung và Khoản 3 Điều 8 nói riêng và sẽ báo cáo Chính phủ tại dự thảo nghị định trên”, ông Đặng Ngọc Minh - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế nêu.

Ngày 15/8/2019, tại phiên chất vấn các thành viên Chính phủ về việc thực hiện các nghị quyết, kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết năm 2018, trả lời câu hỏi chất vấn của ĐBQH Nguyễn Thị Mai Phương, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, về kế hoạch triển khai Luật Quản lý thuế, Thủ tướng đã chỉ đạo cần sửa Nghị định 20, trong đó tập trung vào khoản 3, Điều 8. "Khoản 3, Điều 8 sẽ được sửa triệt để khi chúng ta sửa Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nói.

Kết luận tại Hội nghị trực tuyến sơ kết ngành tài chính, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho rằng ngành tài chính cần lưu ý về công tác xây dựng thể chế, ban hành văn bản.

Theo Phó Thủ tướng, công tác xây dựng thể chế, ban hành văn bản của ngành tài chính vẫn còn chậm, có văn bản không rõ ràng, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Ngành cũng chưa kịp thời trình Thủ tướng, Chính phủ bãi bỏ hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi bổ sung các văn bản đang có vướng mắc.

Phó Thủ tướng đã dẫn ra vấn đề khống chế lãi vay đối với các doanh nghiệp liên kết quy định tại Nghị định số 20 như là một ví dụ. "Thủ tướng 3 lần đều nhắc đến chuyện này rồi", Phó Thủ tướng cho biết. Theo Phó Thủ tướng, nếu chờ sửa đổi bổ sung theo Luật Quản lý thuế thì chậm, nên chăng vướng đâu gỡ đó vì các doanh nghiệp kêu rất nhiều.

Nhiều ý kiến từ phía các doanh nghiệp và chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, nếu quy định về khống chế trần lãi vay không sửa đổi cho phù hợp với thực tế mà phải chờ sửa đổi theo Luật Quản lý thuế thì thiệt hại cộng đồng doanh nghiệp trong nước còn nặng nề gấp ba, bốn lần hiện nay vì phải chờ. Hoặc nếu có việc sửa đổi Nghị định 20 thì phải áp dụng cho kỳ tính thuế từ năm 2017 chứ không phải từ 2020 mới áp dụng. Và thời gian chờ sửa Nghị định, nếu có quyết định tạm dừng thì hợp lý hơn.

Hành trình phản biện, hoàn thiện nội dung Nghị định sửa đổi

Sáng 29/11/2019, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã chủ trì cuộc họp về việc sửa đổi quy định áp mức chi phí lãi vay vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp để nộp thuế theo Nghị định số 20/2017/NĐ-CP của Chính phủ.

Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đề nghị Bộ Tài chính có nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, những bất cập phải sửa và quá trình này cần làm khẩn trương nhưng phải thận trọng.

“Sửa Nghị định 20, tập trung vào khoản 3, Điều 8 là cấp thiết và phải theo nguyên tắc công khai, minh mạch, không phân biệt đối xử, bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tạo thuận lợi về chính sách thuế cho doanh nghiệp nhưng vẫn bảo đảm mục tiêu chống chuyển giá”, Phó Thủ tướng nói và đề nghị Bộ Tài chính trình Chính phủ, Thủ tướng sửa đổi theo quy trình rút gọn, không chờ Chính phủ ban hành Nghị định thực hiện toàn diện Luật Quản lý thuế vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8, đồng thời bảo đảm kịp thời gian quyết toán thuế năm 2019. Nội dung sửa đổi tập trung vào các bất cập hiện nay như quy định khống chế mức chi phí lãi vay đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết, phạm vi áp dụng, đối tượng đặc thù...

Bản dự thảo lần 1: Tăng trần lãi vay, cho phép hồi tố

Ngày 12/12/2019, Bộ Tài chính thông báo sẽ tiến hành lấy ý kiến sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 8 Nghị định số 20/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Ý kiến tham gia đóng góp gửi về Bộ và qua hòm thư điện tử trước ngày 15/12/2019.

Theo đó, tại dự thảo này, Bộ Tài chính đã nâng mức khống chế chi phí lãi vay được trừ lên 30%, thay vì 20% như quy định tại Nghị định 20.

Cụ thể, tổng chi phí lãi vay thuần phát sinh trong kỳ của người nộp thuế (chi phí lãi vay bù trừ với doanh thu lãi tiền gửi, tiền cho vay) được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 30% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng (+) chi phí lãi vay thuần cộng (+) chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế.

Trường hợp tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng chi phí lãi vay thuần cộng chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế nhỏ hơn hoặc bằng 0, chi phí lãi vay thuần phát sinh trong kỳ được chuyển toàn bộ và liên tục vào chi phí lãi vay thuần được để xác định thu nhập chịu thuế của 5 năm tiếp theo theo quy định xác định lỗ và chuyển lỗ của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp.

Hiệp hội Bất động sản Việt Nam tiếp tục có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính và các cấp có thẩm quyền kiến nghị sửa đổi những bất cập liên quan đến Khoản 3 Điều 8 Nghị định 20.

Theo đó, Nghị định 20 nên được sửa đổi theo các hướng:

Thứ nhất, tăng mức trần chặn chi phí lãi vay từ 20% lên 30%, phù hợp với khung khuyến nghị của BEPS và tình hình thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam (như Dự thảo Nghị định sửa đổi gần đây nhất).

Thứ hai, cho tính chặn theo lãi vay thuần (chi phí lãi vay - doanh thu lãi tiền gửi cho vay) vì phù hợp với bản chất của chi phí lãi vay và theo đúng hướng dẫn của OECD; cho phép chuyển tiếp chi phí lãi vay chưa được trừ (do vượt CAP hoặc do công ty chưa có/chưa đủ EBITDA) sang khấu trừ tiếp trong 5 năm. Việc chuyển tiếp Chi phí lãi vay là phù hợp với nguyên tắc của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (Doanh thu phù hợp với chi phí và được chuyển lỗ), hướng dẫn của OECD và thực sự là biện pháp tháo gỡ cho các kiến nghị của các doanh nghiệp trong suốt thời gian ban hành Nghị định 20 đến nay.

Hiệp hội Bất động sản Việt Nam cũng kiến nghị cho phép doanh nghiệp được xác định lại chi phí lãi vay được trừ phát sinh các năm 2017, 2018, 2019 theo các nguyên tắc trên.

Bản dự thảo lần 2: Bỏ điều khoản cho phép hồi tố

Ngày 19/02/2020 Bộ Tài chính trình dự thảo lần 2 sau khi lấy ý kiến Bộ Tư pháp. 

Dù Bộ Tư pháp không phản đối hồi tố nhưng tại tờ trình về dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 8 Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết được trình Chính phủ lần này, Bộ Tài chính chỉ giữ lại quy định tăng trần chi phí lãi vay từ 20% lên 30% EBITDA, bỏ quy định hồi tố, theo đó, Nghị định chỉ áp dụng cho kỳ tính thuế 2019 mà không xác định lại các khoản chi phí lãi vay đã áp dụng theo quy định của khoản 3 Điều 8 Nghị định 20 cho kỳ tính thuế năm 2017, 2018, đồng thời bỏ nội dung chuyển tiếp chi phí sang các năm tiếp theo.

Các luận điểm mà Bộ Tài chính cơ bản như sau: Dự thảo Nghị định sửa đổi khoản 3 Điều 8 điều chỉnh đối với một nhóm đối tượng có chi phí lãi vay vượt quá mức khống chế, không phải là lợi ích chung của xã hội nên cần cân nhắc việc hồi tố. Thứ 2, về mặt bằng chính sách quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định 20 hiện hành có khác so với mặt bằng dự thảo Nghị định nên có thể trường hợp số thu ngân sách Nhà nước (NSNN) thấp hơn số bồi hoàn. Thứ ba, “chưa có nguồn thanh toán” cho tổng kinh phí phải hoàn trả là 4.875 tỷ đồng (2.067 tỷ đồng năm 2017 và 2.808 tỷ đồng năm 2018) và việc áp dụng hồi tố sẽ phát sinh tiêu cực, tạo sự phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý thuế, quản lý cán bộ của ngành thuế.

Ngày 3/3/2020: VNREA tiếp tục kiến nghị cho hồi tố với doanh nghiệp đã nộp thuế theo Nghị định 20.

Sau những kiến nghị của doanh nghiệp, giới chuyên gia và Hiệp hội Bất động sản Việt Nam cùng hàng loạt chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính đã có những động thái đầu tiên khi công bố nghiên cứu nâng mức khống chế chi phí lãi vay được trừ lên 30%, thay vì 20% như quy định tại Nghị định 20.

Tuy nhiên, vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm nhất hiện nay là có “hồi tố” lại các kỳ tính thuế mà doanh nghiệp đã nộp trước đó hay không thì hiện nay vẫn còn bỏ ngỏ câu trả lời.

Từ những lý do đó, Hiệp hội Bất động sản Việt Nam kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành đẩy nhanh tiến độ sửa đổi khoản 3 Điều 8 Nghị định 20 theo hướng:

Thứ nhất là bỏ khoản 3 Điều 8 Nghị định 20.

Thứ hai là kiến nghị hoãn, lùi thời gian thực hiện điều khoản nói trên.

Thứ ba là cho phép hồi tố đối với các doanh nghiệp đã thực hiện khoản 3 Điều 8 Nghị định 20 từ năm 2017 đến nay để đảm bảo công bằng và bình đẳng giữa các doanh nghiệp.

Ngày 13/3/2020: Bộ Tư pháp trả lời Bộ Tài chính: Có cơ sở để hồi tố khoản 3 Điều 8 Nghị định 20

Bộ Tư pháp cho ý kiến như sau: Theo quy định tại khoản 1 Điều 152 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì trong trường hợp để thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội thì văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương (trường hợp này là Nghị định của Chính phủ) có thể quy định hiệu lực trở về trước (hồi tố).

Tuy nhiên, trong thực tế đã có một số trường hợp cho hồi tố, đơn cử trong lĩnh vực thuế thu nhập doanh nghiệp có Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 1/10/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều trong các nghị định về thuế (Khoản 8 Điều 1), do đó, Bộ Tư pháp cho rằng việc cho hồi tố hay không cho hồi tố đối với trường hợp này đều không có vướng mắc về mặt pháp lý mà chủ yếu thuộc vào quan điểm chính sách của nhà nước ta.

Vì vậy, Bộ Tư pháp đề nghị Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 8 Nghị định số 20/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ về quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết.

Reatimes tiếp tục có loạt bài phản biện về các văn bản giải trình của Bộ Tài chính liên quan đến quy định hồi tố

Sau mỗi động thái của Bộ Tài chính, Reatimes đều liên tục triển khai hàng loạt bài phân tích, phản biện nhanh chóng, kịp thời, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của việc cho phép hồi tố khi sửa đổi khoản 3, Điều 8, Nghị định 20, chỉ ra những điểm thiếu thuyết phục trong các giải trình của Bộ Tài chính khi bảo vệ quan điểm không hồi tố, khẳng định có đủ cơ sở pháp lý để hồi tố. Nhiều chuyên gia kinh tế, tài chính, luật sư hàng đầu trong lĩnh vực này cũng đã có những bài phản biện, ủng hộ việc hồi tố đăng tải trên Reatimes.vn.

Ngày 27/3/2020: Các thành viên chính phủ đồng ý hồi tố khoản 3, Điều 8, Nghị định 20

Đa số thành viên Chính phủ chọn quy định cho phép hồi tố xử lý đối với các năm 2017, 2018; cho phép chuyển chi phí lãi vay không được trừ sang các kỳ tính thuế tiếp theo nhưng không quá 5 năm.

Ngày 31/3/2020: Bộ Tài chính trình Chính phủ văn bản Giải trình gửi Thủ tướng ngày 30/3/2020 sau khi có ý kiến của các thành viên Chính phủ: Vẫn bảo lưu quan điểm không hồi tố

Văn bản này cho thấy, sau một “vòng luẩn quẩn” lấy ý kiến Bộ Tư pháp, các bộ ngành và các tổ chức hội đặc biệt là kiến nghị của doanh nghiệp, Bộ Tài chính vẫn tiếp tục vô tư “gạt” điều khoản doanh nghiệp mong chờ nhất ra khỏi bản dự thảo: Đó là không cho phép hồi tố.

"Hạn chót", nỗi mừng hụt và sự đợi chờ mòn mỏi của doanh nghiệp

Ngày 17/4: Thủ tướng Chính phủ đưa ra một "hạn chót", yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện dự thảo nghị định sửa đổi khoản 3 điều 8 Nghị định số 20/2017 đối với nội dung xử lý hồi tố cho năm 2017, 2018... để Chính phủ ban hành vào ngày 20/4.

Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính ký tắt Nghị định, trình Thủ tướng ký. Thủ tướng đồng thời yêu cầu Bộ Tài chính có giải pháp quản lý chặt chẽ, chống tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm khi xử lý hồi tố theo quy định của Nghị định.

Tuy nhiên, trái với yêu cầu "khẩn trương" của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản chỉ đạo ngày 17/4, Bộ Tài chính vẫn tiếp tục trình các văn bản xin ý kiến, kéo dài quá trình hoàn thiện dự thảo. Sau "hạn chót" của Thủ tướng, hóa ra, các doanh nghiệp đã mừng hụt và tiếp tục chờ đợi Nghị định sửa đổi trong mòn mỏi. 

Cụ thể, theo giải trình của Bộ Tài chính, qua rà soát, Bộ Tài chính nhận thấy nội dung Văn bản 3061 chưa nêu rõ hồi tố điều khoản nào của dự thảo Nghị định; mặt khác tại phiếu lấy ý kiến thành viên của Chính phủ không nêu cụ thể đối với nội dung nào.

Vì vậy, Bộ Tài chính đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo 2 phương án và Thường trực Chính phủ đã cho ý kiến chỉ đạo thực hiện theo phương án 1: Cho phép hồi tố năm 2017, 2018 đối với nội dung nâng ngưỡng khống chế chi phí lãi vay từ 20% lên 30%, đồng thời áp dụng chi phí lãi vay thuần. Theo phương án này, dự kiến số thuế phải hoàn hoặc khấu trừ khoảng 4.875 tỷ đồng.

Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo theo kết luận của Thường trực Chính phủ, tuy nhiên, về việc bù trừ số thuế đã nộp trong các năm 2017, 2018, Bộ Tài chính cho rằng, nếu coi đây là trường hợp nộp thừa để vận dụng quy định của Luật Quản lý thuế thì cần được báo cáo Chính phủ xem xét quyết định.

Theo đó, ngày 31/5/2020, Văn phòng Chính phủ tiếp tục lấy ý kiến các thành viên Chính phủ về nội dung dự thảo Nghị định sửa đổi khoản 3 Điều 8 Nghị định 20 mà Bộ Tài chính đã trình, đồng thời lấy ý kiến về thẩm quyền quyết định việc thực hiện nguyên tắc khấu trừ với nghĩa vụ thuế của các kỳ tính thuế tiếp theo nhưng không quá 5 năm khi xử lý hồi tố đối với các năm 2017, 2018 là của Chính phủ hay của Quốc hội.

Ngày 16/6/2020, Văn phòng Chính phủ đã có công văn gửi Bộ Tài chính về việc tiếp thu, giải trình ý kiến thành viên Chính phủ về dự thảo Nghị định sửa đổi khoản 3, Điều 8 Nghị định 20/2017/NĐ-CP. Theo đó, 100% thành viên Chính phủ biểu quyết việc thực hiện nguyên tắc hồi tố thuế thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Bộ Tài chính tổng hợp, tiếp thu, hoàn thiện, ký tắt dự thảo Nghị định theo đúng quy định và trình Thủ tướng Chính phủ trước ngày 17/6.

Ngày 24/6/2020, Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 8, Nghị định 20/2017/NĐ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết chính thức được thông qua.

Các doanh nghiệp, trong đó có  doanh nghiệp bất động sản được trút bớt gánh nặng nhờ Nghị định sửa đổi khoản 3, Điều 8 Nghị định 20.

Như vậy, với việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 20 cho thấy Chính phủ và Bộ Tài chính đã lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp để tiếp thu, sửa đổi các nội dung bất cập của Nghị định 20, đảm bảo phù hợp với thực tế. Đặc biệt, với quy định cho phép hồi tố áp dụng cho các kỳ tính thuế 2017, 2018 đồng nghĩa với việc, những doanh nghiệp đã bị tính thuế oan trong các năm này sẽ được hoàn trả thông qua phương thức bù trừ với nghĩa vụ thuế của kỳ tính thuế 2020 và các kỳ tính thuế tiếp theo.

Như Reatimes đã nhiều lần phân tích và bình luận, việc cho hồi tố này không những bảo đảm sự công bằng, hợp tình hợp lý, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, mà trong sự tác động dữ dội của đại dịch toàn cầu Covid-19, thì đây còn là giải pháp hỗ trợ gián tiếp của Chính phủ giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, ứng phó với đại dịch, để cố gắng duy trì và phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh.

Điều đó càng chứng tỏ một điều, Chính phủ luôn lắng nghe, đồng cảm, đồng hành cùng doanh nghiệp để chia sẻ khó khăn, với đúng vai trò một chính phủ kiến tạo, phục vụ người dân và doanh nghiệp./.

Ý kiến của bạn
Bình luận
Xem thêm bình luận

Đọc thêm

Lên đầu trang
Top